Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng một số kế hoạch dạy học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong chương trình Sinh học 11

Để đáp ứng yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá, hàng năm tôi đều xây dựng lại phân phối chương trình sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, trong đó có một số chủ đề học tập theo hướng nghiên cứu bài học và một số chủ đề trải nghiệm thực tế. Trong mỗi chủ đề học tập, để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh, ngoài những kiến thức khoa học đặc thù của bộ môn mà học sinh cần nắm được, tôi còn lựa chọn những nội dung ứng dụng gắn liền với thực tiễn sản xuất ở địa phương. Khi dạy một bài học hay một chủ đề học tập cụ thể, trong hoạt động hình thành kiến thức mới, tôi thường tiến hành như sau: (1) giao nhiệm vụ học tập cho học sinh; (2) học sinh thực hiện nhiệm vụ, thường thì các em tự nghiên cứu sách giáo khoa để tìm tòi kiến thức, trong thời gian đó, tôi sẽ theo dõi, hướng dẫn và hỗ trợ học sinh khi cần thiết; (3) học sinh báo cáo kết quả, nhận xét, bổ sung; (4) tôi đánh giá, điều chỉnh và chốt kiến thức.

Tuy nhiên, các chủ đề học tập mà tôi xây dựng vẫn thiên về mặt lý thuyết, trừu tượng, ít hình ảnh minh họa, ít nội dung ứng dụng... nên thường kém hấp dẫn với học sinh. Khi thực hiện những hoạt động trong bài học, tôi thấy rất khó để có thể kết nối kiến thức học đường với thế giới thực nhằm giúp giải quyết triệt để các vấn đề thực tiễn. Tôi cũng chưa vận dụng được nhiều kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề thực tiễn nào đó. Giáo án chủ yếu mang tính tiếp cận nội dung chứ chưa chú trọng đến việc phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh.

Trong chương trình Sinh học 11, có một số bài thực hành, các em học sinh được tiến hành các thí nghiệm theo yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực nhất định và tiến hành theo một quy trình có sẵn trong mỗi bài học nên các em chưa được làm quen với các hoạt động có tính chất nghiên cứu khoa học - một hoạt động góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Chính vì vậy, học sinh sẽ khó khăn trong việc đánh giá được sự phù hợp, năng khiếu, sở thích của bản thân với nghề nghiệp thuộc các lĩnh vực liên quan đến bộ môn Sinh học.

Trong quá trình dạy - học, tôi nhận thấy khâu tự học chưa được coi trọng đúng mức, không ít học sinh đọc sách giáo khoa mà không định hướng được nội dung mình cần tìm hiểu, không biết lấy ví dụ, không gắn kết được kiến thức mà mình tìm kiếm được ở trong sách với bất kì hình ảnh thực tế nào mặc dù kiến thức của môn Sinh học lớp 11 rất gần gũi với thực tiễn cuộc sống. Tình trạng học “đối phó” diễn ra khá phổ biến, nhiều học sinh chưa biết sắp xếp hợp lí thời gian cho mỗi bài học, chưa có ý thức chủ động tìm kiếm kiến thức mới.

Trước thực trạng đó, tôi lựa chọn chủ đề: Xây dựng một số kế hoạch dạy học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong chương trình Sinh học 11.

docx 24 trang Thanh Ngân 16/09/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng một số kế hoạch dạy học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong chương trình Sinh học 11", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng một số kế hoạch dạy học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong chương trình Sinh học 11

Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng một số kế hoạch dạy học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong chương trình Sinh học 11
 quyết một vấn đề thực tiễn nào đó. Giáo án chủ yếu mang tính tiếp cận nội dung 
chứ chưa chú trọng đến việc phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. 
 Trong chương trình Sinh học 11, có một số bài thực hành, các em học sinh 
được tiến hành các thí nghiệm theo yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực 
nhất định và tiến hành theo một quy trình có sẵn trong mỗi bài học nên các em chưa 
được làm quen với các hoạt động có tính chất nghiên cứu khoa học - một hoạt động 
góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực của học 
sinh. Chính vì vậy, học sinh sẽ khó khăn trong việc đánh giá được sự phù hợp, năng 
khiếu, sở thích của bản thân với nghề nghiệp thuộc các lĩnh vực liên quan đến bộ 
môn Sinh học.
 Trong quá trình dạy - học, tôi nhận thấy khâu tự học chưa được coi trọng 
đúng mức, không ít học sinh đọc sách giáo khoa mà không định hướng được nội 
dung mình cần tìm hiểu, không biết lấy ví dụ, không gắn kết được kiến thức mà 
mình tìm kiếm được ở trong sách với bất kì hình ảnh thực tế nào mặc dù kiến thức 
của môn Sinh học lớp 11 rất gần gũi với thực tiễn cuộc sống. Tình trạng học “đối 
phó” diễn ra khá phổ biến, nhiều học sinh chưa biết sắp xếp hợp lí thời gian cho 
mỗi bài học, chưa có ý thức chủ động tìm kiếm kiến thức mới. 
 Trước thực trạng đó, tôi lựa chọn chủ đề: Xây dựng một số kế hoạch dạy 
học theo chủ đề nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh trong 
chương trình Sinh học 11.
5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến 
 Phẩm chất và năng lực là hai thành phần cơ bản trong cấu trúc nhân cách nói 
chung và là yếu tố nền tảng tạo nên nhân cách của một con người. Do vậy, trong 
mọi thời đại, các chương trình giáo dục đều hướng tới mục tiêu hình thành phẩm 
chất và năng lực con người.
 Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình 
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Để thực hiện 
được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp 
dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến 
thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tập trung dạy cách học, 
 2 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến 
 6.1. Đưa trải nghiệm sáng tạo vào trong quá trình học tập. Học sinh được 
học trên cơ sở dự án, được giao nhiệm vụ theo từng dự án, từ đó phát huy tối đa khả 
năng tư duy sáng tạo và ứng dụng các kiến thức khoa học vào cuộc sống. Bên cạnh 
đó, thông qua hoạt động nhóm, hoạt động cộng đồng và hoạt động tập thể, học sinh 
được rèn luyện khả năng tư duy, sáng tạo, phản biện, tranh luận và đánh giá hiện 
tượng một cách logic.
 6.2. Rèn luyện cho học sinh phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt 
vận dụng điều đã học vào thực tiễn, đem lại hứng thú, kích thích trí sáng tạo, từ đó 
khơi dậy lòng ham học hỏi và mong muốn được khám phá thế giới khoa học của 
các em.
 6.3. Học sinh được cọ xát, tranh luận, bảo vệ ý kiến của bản thân cũng như 
tạo thói quen hợp tác với các thành viên trong nhóm. Mỗi chủ đề được thiết kế theo 
nhiều giai đoạn, tương ứng với mỗi giai đoạn học sinh đều phải trình bày ý tưởng, 
thiết kế và sản phẩm cuối cùng của mình. Vào giai đoạn cuối, các nhóm sẽ có cơ 
hội trình bày ý tưởng, tư duy và giải pháp.
 6.4. Giúp học sinh hình thành tính tích cực, độc lập, tự giác trong học tập 
cũng như nề nếp làm việc khoa học. Rèn luyện cho học sinh thói quen độc lập suy 
nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn gặp phải trong cuộc sống, giúp các em tự 
tin hơn trong việc định hướng nghề nghiệp bản thân. Ngoài ra, phương pháp tự học 
thúc đẩy lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa 
học, sống có hoài bão, ước mơ, từ đó quyết định sự phát triển các phẩm chất nhân 
cách và quyết định chất lượng học tập của học sinh.
 6.5. Giúp học sinh dễ dàng tiếp cận với chương trình giáo dục phổ thông 
mới của Bộ GD & ĐT dự kiến sẽ đi vào thực tiễn từ năm học 2022 – 2023.
7. Nội dung
7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến
7.1.1. Giải pháp 1: Xây dựng kế hoạch dạy học chủ đề giáo dục STEM trong 
chương trình Sinh học 11: Chủ đề Mứt dừa – sản phẩm an toàn từ thiên nhiên.
1. Nội dung giải pháp
 4 Hoạt động trải nghiệm STEM: Trong hoạt động này, học sinh được khám 
phá các thí nghiệm, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong thực tiễn đời sống. 
 Hoạt động nghiên cứu khoa học và tổ chức các cuộc thi sáng tạo khoa học 
kỹ thuật: Hoạt động này dành cho những học sinh có năng lực, sở thích và hứng 
thú với các hoạt động tìm tòi, khám phá khoa học, kỹ thuật giải quyết các vấn đề 
thực tiễn.
 Trong chủ đề giáo dục định hướng STEM: Mứt dừa – sản phẩm an toàn từ 
thiên nhiên, tôi đã chọn hình thức “Dạy học môn học thuộc lĩnh vực STEM”. Trong 
hình thức tổ chức này, chủ đề STEM được triển khai ngay trong quá trình dạy học 
phần “Quang hợp ở thực vật” trong chương trình Sinh học 11 theo cách tiếp cận 
liên môn, nội dung mà học sinh cần tìm hiểu trong chủ đề bám sát chương trình 
của các môn học liên môn như: Sinh học, Công nghệ, Hóa học và Toán học. 
1.3. Điều kiện triển khai giáo dục STEM
 - Về kiến thức liên quan trong các lĩnh vực: Sinh học, Công nghệ, Hóa học, 
Toán học mà học sinh cần có để thực hiện chủ đề cũng tương đối đơn giản và dễ 
hiểu, lượng kiến thức không nhiều và các em đã được học từ lớp 6 đến lớp 11. 
 - Về thực tiễn: Môn Sinh học vốn là môn khoa học tự nhiên có nhiều ứng 
dụng trong thực tiễn cuộc sống mà trong chương trình học, ngoài tìm hiểu kiến 
thức về lý thuyết, các em cũng thường xuyên được thực hành ứng dụng nên chủ đề 
giáo dục STEM mà tôi lựa chọn cũng không quá khó thực hiện với học sinh.
 - Về cơ sở vật chất: Mặc dù THPT Yên Thế là một trường miền núi, điều 
kiện cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn như: không có vườn sinh học, thiếu các 
điều kiện thực hành ứng dụng sinh học Tuy nhiên, khi thực hiện chủ đề này, học 
sinh của trường có một lợi thế là đa số các em đều sinh sống ở vùng nông thôn, 
hàng ngày các em được tiếp xúc với việc trồng trọt ở địa phương nên việc tiến 
hành chủ đề cũng khá dễ dàng với học sinh ngay từ những bước đầu là chuẩn bị cơ 
sở vật chất. Để tiến hành bài học, tôi chia một lớp (ví dụ: 11A10 có 48 học sinh) 
thành 6 nhóm (mỗi nhóm từ 6 đến 8 học sinh) theo địa bàn thôn, xã để thuận tiện 
cho học sinh hoạt động nhóm. Mỗi nhóm sẽ tiến hành thực hành chủ đề STEM tại 
gia đình của một học sinh; các dụng cụ khác, học sinh có thể mượn của gia đình, 
 6 các giải pháp - lựa chọn giải pháp tối ưu - phát triển và chế tạo một mô hình 
(nguyên mẫu) - thử nghiệm và đánh giá - hoàn thiện thiết kế. 
 - Tiêu chí 3: Phương pháp dạy học bài học STEM đưa học sinh vào hoạt 
động tìm tòi và khám phá, định hướng hành động, trải nghiệm và sản phẩm. 
 - Tiêu chí 4: Hình thức tổ chức bài học STEM lôi cuốn học sinh vào hoạt 
động nhóm kiến tạo, là cơ sở phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác. 
 - Tiêu chí 5: Nội dung bài học STEM áp dụng chủ yếu từ nội dung khoa học 
và toán mà học sinh đã và đang học. 
 - Tiêu chí 6: Tiến trình bài học STEM tính đến có nhiều đáp án đúng và coi 
sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập. Tiêu chí này cho thấy vai trò 
quan trọng của năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo trong dạy học STEM.
2. Các bước xây dựng bài học STEM 
 - Bước 1: Lựa chọn chủ đề bài học 
 Căn cứ vào nội dung kiến thức trong chương trình môn học, quy trình hoặc 
thiết bị công nghệ có sử dụng của kiến thức đó trong thực tiễn... để lựa chọn chủ đề 
của bài học. 
 - Bước 2: Xác định vấn đề cần giải quyết 
 Sau khi chọn chủ đề của bài học, cần xác định vấn đề cần giải quyết để giao 
cho học sinh thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó, học sinh phải học được 
những kiến thức, kỹ năng cần dạy trong chương trình môn học đã được lựa chọn 
(đối với STEM kiến tạo) hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết (đối với 
STEM vận dụng) để xây dựng bài học. 
 - Bước 3: Xây dựng tiêu chí của thiết bị/giải pháp giải quyết vấn đề 
 Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết/sản phẩm cần chế tạo, cần xác 
định rõ tiêu chí của giải pháp/sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng 
để đề xuất giả thuyết khoa học/giải pháp giải quyết vấn đề/thiết kế mẫu sản phẩm. 
 - Bước 4: Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học 
 Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học được thiết kế theo các phương pháp và 
kỹ thuật dạy học tích cực với 3 loại hoạt động học đã nêu ở trên. Mỗi hoạt động 
học được thiết kế rõ ràng về mục đích, nội dung và sản phẩm học tập mà học sinh 
 8 (điểm 8, 9, 10) (điểm 7) (điểm 5, 6) (điểm < 5)
 47 12/47 = 25,5% 19/47 = 40,4% 12/47 = 25,5% 4/47 = 8,6%
 + Kết quả trung bình ở 2 lớp:
Tổng số Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ 
 HS HS đạt HS đạt HS đạt HS chưa đạt
 điểm giỏi điểm khá điểm trung bình yêu cầu
 (điểm 8, 9, 10) (điểm 7) (điểm 5, 6) (điểm < 5)
 92 27/92 = 29,3% 34/92 = 37% 25/92 = 27,2% 6/92 = 6,5%
3.2.2. Kết quả kiểm tra ở các lớp dạy thực nghiệm
 + Lớp 11A10:
 Tổng số Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ 
 HS HS đạt HS đạt HS đạt HS chưa đạt
 điểm giỏi điểm khá điểm trung bình yêu cầu
 (điểm 8, 9, 10) (điểm 7) (điểm 5, 6) (điểm < 5)
 48 30/48 = 62,5% 15/48 = 3/48 = 6,2% 0/48 = 0%
 31,3%
 + Lớp 11A5:
 Tổng số Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ Số lượng, tỉ lệ 
 HS HS đạt HS đạt HS đạt HS chưa đạt
 điểm giỏi điểm khá điểm trung bình yêu cầu
 (điểm 8, 9, 10) (điểm 7) (điểm 5, 6) (điểm < 5)
 45 25/45 = 55,6% 13/45 = 28,9% 7/45 = 15,5% 0/45 = 0%
 + Kết quả trung bình ở 2 lớp:
 10 trong việc động viên, khuyến khích, hướng dẫn học sinh tự học một cách đúng 
hướng và hiệu quả.
 Trong xã hội phát triển, vai trò của giáo dục ngày càng quan trọng, là động 
lực thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Giáo dục phải đào tạo được thế hệ 
trẻ năng động, sáng tạo, có đủ tri thức, năng lực và có khả năng thích ứng với đời 
sống xã hội, làm phát triển xã hội. Muốn vậy, thế hệ trẻ phải có năng lực đặc biệt 
đó là khả năng tự học, tự nâng cao, tự hoàn thiện và những khả năng này phải được 
hình thành từ cấp tiểu học. Có như vậy mới rèn luyện cho họ được kĩ năng tự học, 
tự nghiên cứu, không ngừng nâng cao vốn hiểu biết về văn hóa, khoa học kĩ thuật 
và hiện đại hóa vốn tri thức của mình để trở thành người công dân, người lao động 
với đầy đủ hành trang bước vào cuộc sống.
2. Các bước thực hiện giải pháp
2.1. Bước 1: Nắm rõ đối tượng học sinh
 Đối tượng học sinh lớp 11 tôi đang giảng dạy trong năm học 2019 - 2020 có 
04 lớp. Lớp 11A4 và 11A10, mỗi lớp có 45-48 em học sinh, trong đó mỗi lớp đều 
có 08 em dự định dự thi đại học có môn Sinh học, còn lại các em khác đều chọn thi 
tốt nghiệp các môn Khoa học tự nhiên. Lớp 11A5 và 11A6, mỗi lớp có 45 – 48 em 
học sinh, trong đó không có em nào dự định thi đại học có môn Sinh học và tất cả 
các em đều chọn thi tốt nghiệp các môn khoa học xã hội. Tuy nhiên, các em đều 
phải có kiến thức cơ bản về môn Sinh học nói chung và phần “Sinh trưởng và phát 
triển ở động vật” nói riêng. Loại sách giáo khoa mà các em đang sử dụng làm tài 
liệu nghiên cứu bài học là sách giáo khoa Sinh học 11 ban cơ bản.
 Điểm thuận lợi khi tôi giảng dạy ở 04 lớp này đó là: các em có ý thức học 
tập khá tốt, nhiều em ngoan ngoãn, chăm học; tại phòng học của 04 lớp này có đầy 
đủ phương tiện học tập hiện đại, cần thiết để phục vụ cho quá trình học tập của các 
em: tivi màn hình rộng có kết nối internet, loa; nhiều em có điện thoại thông 
minh riêng; gia đình các em có đầy đủ điện thoại thông minh và máy tính hỗ trợ 
cho quá trình học tập. Chính vì vậy mà việc cung cấp thông tin cho các em từ 
internet cũng dễ dàng hơn đối với giáo viên. 
 12 Trong trường hợp này, sẽ có em có câu trả lời chính xác nhưng cũng có em 
trả lời sai hoặc không tìm được câu trả lời. Tình huống này sẽ được giải quyết một 
cách triệt để sau khi học sinh học xong nội dung chủ đề này.
 * Hoạt động 2: Hình thành kiến thức mới
 - Hoạt động 2.1. Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ; học sinh nhận nhiệm vụ 
(20 phút)
 Trong hoạt động này, tôi tiến hành các nội dung sau:
 + Giới thiệu chủ đề: “Sinh trưởng và phát triển ở động vật” về kiến thức, 
năng lực (năng lực chung, năng lực chuyên biệt - đặc thù của môn Sinh học), phẩm 
chất mà học sinh cần đạt được. 
 + Để giúp các em hình thành kiến thức, tôi phát tài liệu hướng dẫn học sinh 
tự học chủ đề: “Sinh trưởng và phát triển ở động vật” cho từng học sinh. Sau đó tôi 
dành cho các em 5 phút đọc tài liệu để có cái nhìn bao quát về nội dung mà bài học 
yêu cầu.
 + Tiếp theo, tôi cho học sinh quan sát các đoạn video, hình ảnh liên quan 
đến bài học và có định hướng cho học sinh khi xem phim: 
 (1) Video về các giai đoạn sinh trưởng - phát triển ở người, bướm phượng, 
châu chấu. Khi xem video cần: so sánh về hình dạng, cấu tạo, sinh lí của con non 
so với con trưởng thành ở người, bướm phượng và châu chấu, con non có trải qua 
lột xác hay không?
 (2) Các hình ảnh về ảnh hưởng của các hoocmôn đến sinh trưởng - phát triển 
ở người; hình ảnh người “khổng lồ”, người “bé nhỏ”.
 + Sau đó, tôi phân nhóm cho học sinh: Khi dạy, tôi chia mỗi lớp thành 6 
nhóm (mỗi lớp tôi đang giảng dạy có từ 45 đến 48 học sinh được tôi chia làm 6 
nhóm, mỗi nhóm 6 - 8 em), đặt tên cho mỗi nhóm theo thứ tự, phân công vị trí cho 
các nhóm, yêu cầu các nhóm cử nhóm trưởng và thư kí. Tôi giao nhiệm vụ cụ thể 
cho từng nhóm chuẩn bị nội dung báo cáo ở tiết sau, đồng thời giao bài tập về nhà 
cho từng em. 
2.4. Bước 4: Thảo luận và hình thành cho học sinh kĩ năng tự học
 14

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_xay_dung_mot_so_ke_hoach_day_hoc_theo.docx