Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh Lớp 10 theo bộ SGK mới

- Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW (ngày 4 tháng 11 năm 2013) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu đổi mới Chương trình GDPT là góp phần chuyển từ nền GD nặng về truyền thụ kiến thức sang nền GD phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học. Các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường áp dụng những phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó GV có vai trò tổ chức, hướng dẫn hoạt động cho HS, khuyến khích HS tích cực tham gia vào hoạt động học tập, tự phát hiện năng lực, nguyện vọng của bản thân, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm năng và kiến thức, kĩ năng đã tích luỹ được để phát triển.
- Ngữ văn là bộ môn thuộc lĩnh vực GD ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Là môn học mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn, môn Ngữ văn có vai trò to lớn trong việc giúp HS hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học tập suốt đời. Ngoài việc góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo), Chương trình môn Ngữ văn “giúp HS phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống” [5, tr.5]. Để mục tiêu này trở thành hiện thực, phương pháp giáo dục Ngữ văn được xác định theo hướng tổ chức hoạt động GD với HS là trung tâm, HS là chủ thể của các hoạt động học tập. Chương trình Ngữ văn 2018 đã xác định rõ cần “rèn luyện cho HS phương pháp đọc, viết, nói và nghe; thực hành, trải nghiệm việc tiếp nhận và vận dụng kiến thức tiếng Việt, văn học thông qua các hoạt động học bằng nhiều hình thức trong và ngoài lớp học; chú trọng sử dụng các phương tiện dạy học, khắc phục tình trạng dạy theo kiểu đọc chép, phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng sử dụng các phương tiện cho học sinh” [5, tr.79]. Như vậy, GV cần tổ chức hoạt động để HS chủ động làm việc, trao đổi, tranh luận và tự rút ra kết luận về kiến thức, nội dung vấn đề. Cái hay, cái đẹp của văn bản cần được khám phá bởi chính người học, theo quan niệm, trình độ và nhận thức, tâm lí, tình cảm của chính các em.
- Năm 1983, Giáo sư - Tiến sĩ Howard Gardner của Đại học Harvard Mỹ công bố công trình nghiên cứu rất nhiều năm của ông về trí thông minh với nhan đề “Frames of Mind” (tạm dịch “Cơ cấu của trí khôn”). Thuyết Đa trí tuệ ra đời đã đem đến một góc nhìn mới mẻ, thể hiện tính nhân văn khi kêu gọi nhà trường, giáo viên và phụ huynh coi trọng khả năng riêng ở mỗi HS. Vận dụng thuyết Đa trí tuệ vào dạy học hoàn toàn phù hợp với yêu cầu đổi mới CTGD. Khi nền GD lấy việc rèn luyện phẩm chất, năng lực người học là mục tiêu chính thì mỗi người học phải là chủ thể tự rèn luyện năng lực cho bản thân trên cơ sở tiềm năng của mình. Một trong những giải pháp để phát triển năng lực người học hiện nay là dạy học phân hoá. Mỗi người học có sở trường, khả năng học tập, thói quen tư duy riêng vì thế những chiến lược học tập của các HS khác nhau cần được GV thừa nhận và tôn trọng. HS được thực hiện các nhiệm vụ học tập và lựa chọn vấn đề phù hợp với mình, GV khuyến khích sự mạnh dạn, tự tin trong trao đổi, tranh luận, thể hiện của HS đồng thời động viên và khen ngợi kịp thời các HS có ý tưởng sáng tạo, mới mẻ, độc đáo.
- Theo Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, văn bản thơ được dạy ở tất cả các khối lớp, từ lớp 6 đến lớp 12. Ở chương trình lớp 10, thơ trữ tình chiếm vị trí quan trọng.

Đọc hiểu thơ trữ tình giúp HS có cơ hội được hòa vào những rung động của con người trước vẻ đẹp của cuộc sống, được bồi đắp thêm về tâm hồn, tình cảm. Từ đó, các em biết trân trọng, nâng niu những tình cảm đẹp, biết ứng xử nhân văn trong cuộc sống. Hiện nay, GV đã dần thay thế hình thức giảng văn, nói cho HS nghe cái hay, cái đẹp của tác phẩm theo nhận thức và cảm thụ của mình bằng việc hướng dẫn cho HS biết cách tiếp nhận, tự tìm hiểu cái hay, cái đẹp của tác phẩm bằng hiểu biết và cảm nhận của chính các em. Mặc dù có ý thức đổi mới PPDH nhưng trong quá trình dạy đọc hiểu thơ trữ tình, không ít GV vẫn tỏ ra lúng túng trong việc lựa chọn và sử dụng PPDH sao cho hiệu quả. Bởi khi tiếp cận văn bản thơ trữ tình, bên cạnh những HS yêu thích và có năng khiếu cảm thụ văn chương, vẫn còn nhiều HS thờ ơ, không hứng thú bởi những khó khăn về “hàng rào ngôn ngữ”, về khoảng cách thẩm mĩ. Vì vậy, việc tìm ra chìa khoá giúp HS hứng thú trong giờ học đọc hiểu thơ trữ tình là rất cần thiết. Trên thực tế, mỗi HS có cách tư duy khác nhau với năng lực nổi trội riêng, bởi vậy sẽ có những PPDH đọc hiểu phù hợp và hiệu quả với HS này mà không phù hợp, hiệu quả với những HS khác. Dựa trên việc tôn trọng sự khác biệt của mỗi người học cũng như sự đa dạng trí tuệ của mỗi HS, GV sẽ lựa chọn PPDH phù hợp, linh hoạt thay đổi các phương pháp để tạo nên giờ học thú vị, đảm bảo tất cả HS đều tham gia tích cực vào việc học.
Như vậy, xuất phát từ nền tảng khoa học vững chắc, từ yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục nói chung và đổi mới dạy học Ngữ văn nói riêng, từ thực trạng dạy học đọc hiểu thơ trữ tình trong nhà trường phổ thông, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 10” để nghiên cứu với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học Ngữ văn trong trường THPT, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

pdf 62 trang Thanh Ngân 24/05/2025 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh Lớp 10 theo bộ SGK mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh Lớp 10 theo bộ SGK mới

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng thuyết đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh Lớp 10 theo bộ SGK mới
 to lớn trong việc giúp HS hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các 
năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học tập suốt đời. Ngoài việc góp phần 
giúp HS phát triển các năng lực chung (năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp 
tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo), Chương trình môn Ngữ văn “giúp HS phát triển 
năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; có hệ 
thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, phát triển tư duy hình tượng 
và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá; biết tạo 
lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản 
phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống” [5, tr.5]. Để mục tiêu này 
trở thành hiện thực, phương pháp giáo dục Ngữ văn được xác định theo hướng tổ chức hoạt 
động GD với HS là trung tâm, HS là chủ thể của các hoạt động học tập. Chương trình Ngữ 
văn 2018 đã xác định rõ cần “rèn luyện cho HS phương pháp đọc, viết, nói và nghe; thực 
hành, trải nghiệm việc tiếp nhận và vận dụng kiến thức tiếng Việt, văn học thông qua các 
hoạt động học bằng nhiều hình thức trong và ngoài lớp học; chú trọng sử dụng các phương 
tiện dạy học, khắc phục tình trạng dạy theo kiểu đọc chép, phát triển tư duy, rèn luyện kĩ 
năng sử dụng các phương tiện cho học sinh” [5, tr.79]. Như vậy, GV cần tổ chức hoạt động 
để HS chủ động làm việc, trao đổi, tranh luận và tự rút ra kết luận về kiến thức, nội dung 
vấn đề. Cái hay, cái đẹp của văn bản cần được khám phá bởi chính người học, theo quan 
niệm, trình độ và nhận thức, tâm lí, tình cảm của chính các em. 
 - Năm 1983, Giáo sư - Tiến sĩ Howard Gardner của Đại học Harvard Mỹ công bố công 
trình nghiên cứu rất nhiều năm của ông về trí thông minh với nhan đề “Frames of Mind” 
(tạm dịch “Cơ cấu của trí khôn”). Thuyết Đa trí tuệ ra đời đã đem đến một góc nhìn mới 
mẻ, thể hiện tính nhân văn khi kêu gọi nhà trường, giáo viên và phụ huynh coi trọng khả 
năng riêng ở mỗi HS. Vận dụng thuyết Đa trí tuệ vào dạy học hoàn toàn phù hợp với yêu 
cầu đổi mới CTGD. Khi nền GD lấy việc rèn luyện phẩm chất, năng lực người học là mục 
tiêu chính thì mỗi người học phải là chủ thể tự rèn luyện năng lực cho bản thân trên cơ sở 
tiềm năng của mình. Một trong những giải pháp để phát triển năng lực người học hiện nay 
là dạy học phân hoá. Mỗi người học có sở trường, khả năng học tập, thói quen tư duy riêng 
vì thế những chiến lược học tập của các HS khác nhau cần được GV thừa nhận và tôn trọng. 
HS được thực hiện các nhiệm vụ học tập và lựa chọn vấn đề phù hợp với mình, GV khuyến 
khích sự mạnh dạn, tự tin trong trao đổi, tranh luận, thể hiện của HS đồng thời động viên và 
khen ngợi kịp thời các HS có ý tưởng sáng tạo, mới mẻ, độc đáo. 
 - Theo Chương trình GDPT môn Ngữ văn 2018, văn bản thơ được dạy ở tất cả các 
khối lớp, từ lớp 6 đến lớp 12. Ở chương trình lớp 10, thơ trữ tình chiếm vị trí quan trọng. 
 2 
 + Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu thơ trữ tình cho học sinh lớp 
10: 
 + Mô hình bài giảng mẫu: Vận dụng thuyết Đa trí tuệ trong dạy học đọc hiểu văn 
bản Thu hứng của Đỗ Phủ 
 7.1.1 Giải pháp 1 
 *Tên giải pháp: Trang bị, cung cấp tri thức về thuyết đa trí tuệ 
 *Nội dung: 
 7.1.1.1 Sự ra đời của thuyết Đa trí tuệ 
 Năm 1904, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Công cộng tại Paris đã đề nghị nhà tâm lí học 
Pháp Allfred Binet và một nhóm đồng nghiệp xác định những học sinh ở cấp tiểu học dễ bị 
“trượt nhất” để lưu tâm bồi dưỡng cho các em. Nhờ nỗ lực của các nhà khoa học, những 
trắc nghiệm đầu tiên về trí tuệ ra đời. Du nhập sang Hoa Kì mấy năm sau, các trắc nghiệm 
về trí tuệ đã trở nên phổ biến, người ta cho rằng trí thông minh có thể đo được một cách 
khách quan và quy thành một chỉ số gọi là “chỉ số thông minh IQ”. Tuy nhiên, gần 80 năm 
sau khi các trắc nghiệm đầu tiên về trí tuệ được triển khai, nhà tâm lí học tại trường Đại học 
Havard - Howard Gardner đã thách thức niềm tin ấy. 
 Howard Gardner (sinh năm 1943) là Giáo sư Tâm lí học Nhận thức và Tâm lí 
học Giáo dục bậc Cao học tại Khoa Giáo dục của Đại học Harvard (Mỹ). Ngoài cuốn 
“Frames of Mind - The Theory of Multiple Intelligences” (Cơ cấu trí khôn - Lí thuyết về 
nhiều dạng trí khôn) (1983) - cuốn sách được coi là “gối đầu giường của sinh viên sư phạm 
và các nhà tâm lí học”, Howard Gardner còn là tác giả của những cuốn sách nổi tiếng khác 
như: The mind’s new science: A history of the cognitive revolution (Một khoa học mới về 
trí khôn: Lịch sử cuộc cách mạng nhận thức (1985), The unschooled mind (Trí khôn phi học 
đường) (1991) 
 Thuyết Đa trí tuệ, gọi tắt là MI (cách gọi tắt của Theory of Multiple 
Intelligences) ra đời từ sự tổng kết, xem xét, đánh giá nhiều nguồn tư liệu của Howard 
Gardner. Nó cũng là kết quả của những khảo sát thực nghiệm của bản thân tác giả. Gardner 
đã từng nhận được nhiều gợi ý từ nhóm cộng sự hoạt động trong Dự án Zero của trường Đạ 
học Havard. Năm 1979, với tư cách là một nhà nghiên cứu của trường Havard, Howard 
Gardner đã được một tổ chức nhân đạo Hà Lan, Quỹ Bernard Van Leer đề nghị khảo sát về 
tiềm năng con người. Lời mời này đã dẫn đến việc thành lập Dự án Zero, được coi là “bà 
mụ” của thuyết Đa trí tuệ. Mặc dù Garder đã từng nghĩ đến khái niệm “có nhiều loại trí tuệ” 
ngay từ những năm giữa thập kỉ 1970 nhưng đến năm 1983, việc ấn hành cuốn “Frames of 
Mind” của ông mới thực sự là ngày ra đời của thuyết Đa trí tuệ. Trong cuốn sách này, ông 
 4 
 này bao gồm khả năng nhìn, thể hiện bằng đồ thị và các ý tưởng về không gian thị giác và 
cả khả năng tự định hướng một cách thích hợp trong một ma trận không gian. 
 (4) Trí tuệ hình thể - động năng (vận động): Là sự thành thạo trong việc sử dụng 
cơ thể để thể hiện các ý tưởng và cảm xúc (chẳng hạn như một diễn viên kịch, một tài tử 
kịch câm, một lực sĩ hoặc một diễn viên múa) cũng như sự khéo léo trong việc sử dụng hai 
bàn tay để sản xuất hay biến đổi sự vật (chẳng hạn một nghệ nhân, một nhà điêu khắc, một 
thợ cơ khí hay một bác sĩ phẫu thuật). Dạng trí tuệ này bao gồm các kĩ năng cơ thể đặc biệt 
như sự phối hợp cử động, khả năng giữ thăng bằng, sự khéo tay, sức mạnh cơ bắp, sự mềm 
dẻo và tốc độ... 
 (5) Trí tuệ âm nhạc: Là khả năng cảm nhận (như người yêu âm nhạc), phân biệt 
(như nhà phê bình âm nhạc), biến đổi (như nhà soạn nhạc) và thể hiện (như một nhạc công) 
các hình thức âm nhạc. Dạng trí tuệ này bao gồm tính nhạy cảm đối với nhịp điệu, âm sắc, 
âm tần của một bản nhạc. Một người có thể nắm bắt âm nhạc một cách chung chung, tổng 
quát (sành nhạc theo lối trực giác) hoặc nắm bắt âm nhạc một cách chính quy, có bài bản 
(sành nhạc theo lối phân tích, qua nhạc lí). Trí tuệ âm nhạc cũng có thể là sự kết hợp của hai 
dạng thưởng thức vừa kể trên. 
 (6) Trí tuệ giao tiếp: Là khả năng cảm nhận và phân biệt giữa các tâm trạng, ý đồ, 
động cơ và cảm nghĩ của người khác. Dạng trí tuệ này bao gồm năng khiếu nắm bắt những 
thay đổi về nét mặt, giọng nói, động tác, tư thế; khả năng phân biệt các biểu hiện giao lưu 
giữa người và người và đáp ứng các biểu hiện đó một cách thích hợp, thiết thực (chẳng hạn 
tác động định hướng cho một nhóm người hưởng ứng một đường lối hành động nào đó). 
 (7) Trí tuệ nội tâm: Là khả năng hiểu biết bản thân và hành động một cách thích 
hợp trên cơ sở sự tự hiểu mình. Dạng trí tuệ này bao gồm khả năng có một hình ảnh rõ nét 
về mình (bao gồm các ưu điểm, hạn chế của chính mình), ý thức đầy đủ và đúng về tâm 
trạng, động cơ, tính khí và mong ước của riêng mình, kèm theo khả năng tự kiềm chế, tự 
kiểm soát (tính kỉ luật, tự kỉ), lòng tự trọng. 
 (8) Trí tuệ tự nhiên học (tự nhiên): Là năng khiếu nắm bắt, nhận dạng và phân loại 
các loài đông đảo (thực vật chí và động vật chí) có mặt trong môi trường sống của chúng ta. 
Dạng trí tuệ này cũng bao gồm sự nhạy cảm đối với các hiện tượng thiên nhiên (chẳng hạn 
sự hình thành mây, sự tạo núi). Đối với những người sống trong môi trường đô thị, đó 
còn là năng khiếu phân biệt giữa các vật bất động, vô tri như xe cộ, giày thể thao và vỏ bọc 
ngoài (bìa), đĩa CD 
 Gần đây, Gardner đã bổ sung dạng trí tuệ thứ 9 - trí tuệ Sinh tồn mà theo ông 
mô tả là dạng trí tuệ về những băn khoăn cho các vấn đề tối hậu của cuộc sống, như ý nghĩa 
 6 
 trả lời câu hỏi thì trong lớp học ĐTT, GV liên tục thay đổi phương pháp dạy, kết hợp 
uyển chuyển nhiều dạng trí tuệ một cách sáng tạo, chẳng hạn chuyển từ lối dạy ngôn ngữ 
sang lối dạy không gian, lối dạy âm nhạc Mỗi HS có những thiên hướng khác nhau theo 8 
dạng trí tuệ do đó không thể có một chiến lược nào có thể hoạt động tốt đối với mọi HS. Vì 
giữa các HS có sự khác biệt về thiên hướng trí tuệ nên GV cần ứng dụng nhiều chiến lược 
dạy học khác nhau đối với các em. 
 Thomas Amstrong đã giới thiệu 40 chiến lược dạy học gợi ý cho GV áp dụng 
ở các bậc học: 
 Bảng 1.1. Tám dạng trí tuệ và các chiến lược dạy học 
 Dạng trí tuệ Chiến lược dạy học 
 Kể chuyện 
 Động não 
 Trí tuệ ngôn ngữ Ghi băng 
 Viết nhật kí 
 In ấn 
 Tính toán và định lượng hoá 
 Phân loại và xếp hạng 
 Trí tuệ logic - toán học Hỏi đáp theo kiểu Socrates 
 Các Heuristics -Khoa học về phát minh - sáng chế 
 Tư duy khoa học 
 Tạo hình ảnh 
 Lập mã bằng màu sắc 
 Trí tuệ không gian Hình ảnh ẩn dụ 
 Phác thảo hình tượng bằng các ý tưởng 
 Biểu tượng bằng đồ thị 
 Các đáp ứng của cơ thể 
 Sân khấu trong lớp 
 Trí tuệ hình thể - động năng Vài khái niệm động năng 
 Tư duy theo lối “dùng tay nặn bột” 
 Bản đồ cơ thể 
 8 
 thế mạnh riêng. HS được đặt niềm tin và giữ vai trò trung tâm, chủ động và tích cực tiếp cận 
bài học theo cách riêng phù hợp. HS được tiếp cận, lưu giữ thông tin theo những cách khác 
nhau và được đánh giá linh hoạt ở nhiều trí thông minh đa dạng. Mỗi dạng trí tuệ được quan 
tâm và phát triển đúng cách sẽ là tiền đề, cơ sở để tạo ra những năng lực đa dạng của mỗi cá 
nhân. Khi HS được GV tôn trọng, thừa nhận sở trường, phong cách học tập và được khơi 
dậy niềm đam mê, sự hứng thú, chắc chắn giờ học sẽ trở nên sôi nổi, tích cực hơn. 
 *Đối với yêu cầu của thời đại 
 Cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ trong những năm qua đã làm 
tăng vọt khối lượng tri thức của toàn nhân loại, GD không thể thực hiện chức năng truyền 
thống là truyền đạt khối kiến thức khổng lồ ấy cho thế hệ trẻ. Nội dung của các môn học 
không phải là liệt kê toàn bộ kiến thức cần truyền đạt, mà thay vào đó là kiến thức nền tảng, 
cơ bản, chủ yếu rèn luyện cho người học những năng lực cần thiết. Mục tiêu của GD là 
hướng tới phát triển nhân cách, giá trị và năng lực đa dạng ở HS, do đó GV cần chú ý phát 
huy tính tích cực của người học bằng cách tổ chức các hoạt động học tập cho HS, hướng 
dẫn, giám sát và hỗ trợ HS để các em từng bước hình thành và phát triển các phẩm chất và 
năng lực mà CTGD mong đợi. 
 Hiện nay, dạy học tích hợp và phân hoá là xu thế phổ biến của giáo dục trên thế giới, 
cũng là yêu cầu cơ bản của dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực HS ở 
Việt Nam. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ các kiến 
thức, kĩ năng thuộc những môn học khác nhau thành một nội dung thống nhất. Dạy học tích 
hợp là định hướng dạy học giúp HS phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kĩ 
năng... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và 
trong cuộc sống, được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng 
[2, tr.36]. Dạy học phân hóa là định hướng dạy học phù hợp với các đối tượng HS khác 
nhau, nhằm phát triển tối đa tiềm năng vốn có của mỗi HS dựa vào đặc điểm tâm - sinh lí, 
khả năng, nhu cầu, hứng thú và định hướng nghề nghiệp khác nhau của HS. Những dấu hiệu 
cơ bản của dạy học phân hóa như: Sự quan tâm có hệ thống dành cho người học có đa dạng 
các nhu cầu đặc biệt; điều chỉnh nội dung kiến thức để đáp ứng năng lực, kinh nghiệm và 
hứng thú của người học; tổ chức nhiều hình thức dạy học, cách học chú ý tới các đối tượng 
riêng biệt, cá nhân hóa người học giúp HS đạt được mục tiêu; khuyến khích người học 
chứng minh hiểu biết của mình theo nhiều cách có ý nghĩa; tôn trọng sự đa dạng trí tuệ 
trong môi trường học tập dựa vào nhu cầu và năng lực người học. Có thể nói, vận dụng 
thuyết ĐTT vào dạy học trong nhà trường là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thời đại 
 10 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_thuyet_da_tri_tue_trong_day_h.pdf