Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh

1. Tên sáng kiến: Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh.

2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20/9/2022

3. Các thông tin cần bảo mật nếu có: hình ảnh của học sinh

4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm

Trong thực tiễn giảng dạy, để giúp HS đọc hiểu các văn bản Ngữ Văn 11, tôi nhận thấy đa phần giáo viên đã lựa chọn biện pháp sau:

Biện pháp: Giảng văn

- Tình trạng: HS ít phải hoạt động

- Nhược điểm, hạn chế:

+ Tách riêng nội dung và nghệ thuật

+ Quá chú trọng vai trò của người Thầy

5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến:

- Nghề nào cũng cần có sự đổi mới, nghề dạy học lại càng cần có sự đầu tư sáng tạo hơn nữa bởi lẽ đây là nghề trao và nhận kiến thức. Kiến thức vốn đã phong phú, đa dạng, biết đã khó hướng dẫn người khác còn khó hơn. Cho nên người thầy dạy học ngoài chuyên môn vững vàng, kiến thức sâu rộng rất cần có phương pháp giảng dạy tốt để học sinh tiếp nhận kiến thức dễ nhất và nhanh nhất. Đặc biệt người thầy cũng phải linh hoạt thay đổi các phương pháp truyền giảng để tạo hứng thú cho học sinh.

Môn Ngữ văn vừa là một môn khoa học lại là bộ môn có tính nghệ thuật. Đây là môn học của cảm xúc, của trái tim tác động đến người học thông qua những hình tượng nghệ thuật. Không có những con số chính xác, những công thức mặc định, môn Ngữ văn mang đến những cảm nhận, những rung cảm từ đó tác động đến tâm hồn, tình cảm giúp các em học sinh có thêm những nhận thức, những trải nghiệm về cuộc sống. Do tính chất, đặc trưng riêng của bộ môn, dạy học môn Ngữ văn đòi hỏi ở người thầy những đặc thù khác biệt. Ngoài việc phải biết tự xác định lượng kiến thức trong bài để xây dựng được hệ thống kiến thức mạch lạc, người thầy rất cần có phương pháp giảng dạy hấp dẫn nhằm kích thích hứng thú cũng như những rung cảm nghệ thuật của các em học sinh. Đến với mỗi bài giảng người giáo viên Ngữ văn cần tìm hiểu kĩ, đặt mình vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, hiểu được căn cốt vấn đề từ đó hướng dẫn học sinh bằng tất cả tâm huyết của mình. Cùng với tâm huyết, trách nhiệm người giáo viên Ngữ văn trước khi lên lớp phải nghiên cứu kĩ các phương pháp truyền đạt để có được phương thức giảng dạy phù hợp với nội dung bài học và tâm lí của học sinh.

- Giáo dục STEAM đang là vấn đề thời sự của giáo dục nước nhà, là một hướng đi rất thiết thực cho sự đổi mới nền giáo dục, phù hợp với xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đã có rất nhiều tài liệu dành riêng cho giáo dục STEAM nhưng chúng ta vẫn chưa đạt được sự thống nhất về nhận thức và cách tiếp cận giáo dục STEAM. Trước thực tế đó, sáng kiến này mong muốn góp một phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề chủ yếu về lí luận của dạy học STEAM và sự liên quan của nó với việc giảng dạy môn Ngữ văn THPT.

Từ những trăn trở về đổi mới phương pháp giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng, từ những băn khoăn về các văn bản trong chương trình Ngữ văn 11, tôi xin chia sẻ với bạn bè đồng nghiệp về vấn đề mà tôi đã trải nghiệm: “Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh”.

6. Mục đích của của giải pháp sáng kiến

Sáng kiến tập trung làm rõ những vấn đề chủ yếu của lí luận của dạy học STEAM và sự liên quan của nó với việc giảng dạy môn Ngữ văn THPT; đề xuất một số hình thức vận dụng lí luận STEAM vào quá trình giảng dạy. Đồng thời, trong sáng kiến này, nhóm tác giả cũng đưa ra một cách soạn giáo án mới, nêu rõ việc áp dụng STEAM một cách cụ thể trong các hoạt động dạy học.

doc 72 trang Thanh Ngân 05/06/2025 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh
 MẪU 5
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP
 VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
 1. Tên sáng kiến: Vận dụng phương pháp giáo dục STEAM trong giảng dạy 
đọc hiểu văn bản Ngữ Văn nhằm phát huy năng lực của học sinh.
 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 20/9/2022
 3. Các thông tin cần bảo mật nếu có: hình ảnh của học sinh
 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm 
 Trong thực tiễn giảng dạy, để giúp HS đọc hiểu các văn bản Ngữ Văn 11, 
tôi nhận thấy đa phần giáo viên đã lựa chọn biện pháp sau:
 Biện pháp: Giảng văn
 - Tình trạng: HS ít phải hoạt động
 - Nhược điểm, hạn chế: 
 + Tách riêng nội dung và nghệ thuật
 + Quá chú trọng vai trò của người Thầy
 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: 
 - Nghề nào cũng cần có sự đổi mới, nghề dạy học lại càng cần có sự đầu tư 
sáng tạo hơn nữa bởi lẽ đây là nghề trao và nhận kiến thức. Kiến thức vốn đã 
phong phú, đa dạng, biết đã khó hướng dẫn người khác còn khó hơn. Cho nên 
người thầy dạy học ngoài chuyên môn vững vàng, kiến thức sâu rộng rất cần có 
phương pháp giảng dạy tốt để học sinh tiếp nhận kiến thức dễ nhất và nhanh nhất. 
Đặc biệt người thầy cũng phải linh hoạt thay đổi các phương pháp truyền giảng để 
tạo hứng thú cho học sinh.
 Môn Ngữ văn vừa là một môn khoa học lại là bộ môn có tính nghệ thuật. Đây 
là môn học của cảm xúc, của trái tim tác động đến người học thông qua những 
hình tượng nghệ thuật. Không có những con số chính xác, những công thức mặc 
định, môn Ngữ văn mang đến những cảm nhận, những rung cảm từ đó tác động 
đến tâm hồn, tình cảm giúp các em học sinh có thêm những nhận thức, những trải 
nghiệm về cuộc sống. Do tính chất, đặc trưng riêng của bộ môn, dạy học môn Ngữ + Định hướng vận dụng phương pháp STEAM nhằm phát triển năng lực, 
phẩm chất của HS qua các bài đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn THPT
 + Mô hình bài giảng mẫu: Vận dụng phương pháp dạy học STEAM vào 
giảng dạy tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao
 7.1.1 Giải pháp 1
 *Tên giải pháp: Trang bị, cung cấp tri thức về phương pháp giáo dục 
STEAM 
 *Nội dung: 
 7.1.1.1 Phương pháp giáo dục STEAM hướng tới một quan niệm: 7.1.1.2. Cơ sở hình thành dạy học dự án STEAM trong giáo dục nước 
ta.
 Giáo dục theo hướng vận dụng những kĩ thuật, phương pháp dạy học tiên 
tiến, hiện đại trong đó có vận dụng dạy học theo dự án STEAM là một định hướng 
của nền giáo dục nước nhà theo hướng đổi mới.
 Định hướng phát triển GDĐT giai đoạn 2021-2030 Đại hội XIII xác định là: 
“Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT, phát triển nguồn nhân lực 
chất lượng cao và trọng dụng nhân tài”. Việc Đảng ta nhấn mạnh yêu cầu “tạo đột 
phá” trong đổi mới GDĐT là xuất phát từ tình hình thực tế sau 35 năm đổi mới đất 
nước, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, mười năm thực hiện Cương lĩnh 2011, 
đặc biệt là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII. Mặc dù sự nghiệp GDĐT đã 
có những chuyển biến tích cực cả về quy mô, số lượng, chất lượng, hiệu quả, cả về 
nội dung, phương pháp, phương thức đào tạo và đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý 
giáo dục,  Tuy nhiên, việc “đổi mới GDĐT, khoa học và công nghệ chưa thực sự 
trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. 
 Sự hạn chế đó không chỉ thể hiện trên bình diện tư duy, chính sách, giải 
pháp, tổ chức hệ thống, công tác tổ chức, cán bộ, mà còn cả về mặt giáo dục đạo 
đức, kỹ năng sống, giáo dục nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, giáo dục kết hợp 
nghiên cứu khoa học, đầu tư cho giáo dục chưa theo kịp yêu cầu phát triển... Hơn 
nữa, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, sự tích lũy kho tàng tri 
thức khổng lồ của loài người, càng đòi hỏi phải kịp thời đổi mới cách tiếp cận, nội 
dung, phương pháp GDĐT. Như vậy, sự “tạo đột phá” là yêu cầu cấp thiết, khách 
quan, phù hợp với mục tiêu về GDĐT và yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực, trọng dụng nhân tài.
 Nhiệm vụ, giải pháp về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT trong nhiệm 
kỳ Đại hội XIII có nhiều điểm mới so với Đại hội XII, không còn gộp chung 
với khoa học công nghệ mà được tách thành một mục riêng “Đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển 
con người”; thay từ “phát triển” bằng từ “nâng cao” và thêm cụm từ “phát 
triển con người”. Trên cơ sở đó, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 
2021 - 2030 đã đặt ra nhiệm vụ: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực 
chất lượng cao, trọng tâm là hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào 
tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công 
nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng”. Nếu trước đây chỉ nhấn mạnh chẽ GDĐT với nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ 
mới; đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm xã hội, đi đôi với chính sách đãi ngộ, 
chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đầu tư thích đáng 
cho GDĐT chất lượng cao, trình độ cao; đầu tư đặc thù cho vùng khó khăn, vùng 
đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh tự chủ đại học, tạo đột phá phát triển, nâng 
cao chất lượng giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao
 Việc tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương 
thức, phương pháp GDĐT theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế là nhằm thích ứng 
với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; còn việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống 
giáo dục quốc dân là nhằm bảo đảm điều kiện cho mỗi người dân đều được thụ 
hưởng một cách công bằng thành quả của nền giáo dục. Theo đó, GDĐT cần đặt 
trọng tâm vào phát triển con người một cách toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, 
năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi của tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân 
tộc; khơi dậy được khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và thích 
ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đổi mới GDĐT phải bắt đầu từ 
giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học, quan tâm nhiều tới giáo dục phổ thông; 
đưa nội dung kỹ năng số vào chương trình giáo dục phổ thông; nâng cao chất 
lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh; 
đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm 
công dân, xã hội; có kỹ năng nhận thức, tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng 
làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số và hội nhập quốc tế; 
chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn 
diện năng lực và phẩm chất người học, từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình 
thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet, truyền hình Qua 
đại dịch Covid-19 cho thấy giáo dục đã chuyển mình tương đối thành công sang 
giáo dục trực tuyến, điều này cũng phù hợp xu thế thời đại; hoàn thiện, ổn định hệ 
thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học, đây là vấn đề căn bản, cốt yếu 
của mọi nền giáo dục, riêng ở nước ta còn nhiều bất cập; hoàn thiện và thực hiện 
ổn định các phương thức đánh giá, kiểm định chất lượng GDĐT. Đa dạng hóa các 
loại hình đào tạo, phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa 
các vùng, miền; thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo bậc đại học; thí điểm 
chuyển đổi mô hình trường công lập sang cơ sở giáo dục do cộng đồng, doanh 
nghiệp quản lý và đầu tư phát triển; xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời; chú 
trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn a. Về phẩm chất
 * Yêu nước: Đây là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam, được 
xây dựng và bồi đắp qua các thời kỳ từ khi ông cha ta dựng nước vàgiữ nước. 
Tình yêu đất nước được thể hiện qua tình yêu thiên nhiên, di sản, yêu người dân 
đất nước mình; tự hào và bảo vệ những điều thiêng liêng đó. Yêu nước là yêu 
thiên nhiên, yêu truyền thống dân tộc, yêu cộng đồng và biết làm ra các việc 
làm thiết thực để thể hiện tình yêu đó. Để có được tình yêu này thì học sinh phải 
được học tập hàng ngày qua những áng văn thơ, qua những cảnh đẹp địa lý, qua 
những câu chuyện lịch sử và người học phải được sống trong tình yêu hạnh 
phúc mỗi ngày.
 * Nhân ái: Nhân ái là biết yêu thương, đùm bọc mọi người; yêu cái 
đẹp, yêu cái thiện; tôn trọng sự khác biệt; cảm thông, độ lượng và sẵn lòng 
giúp đỡ người khác. Nhân ái là tôn trọng sự khác biệt của những người xung * Năng lực sáng tạo: là năng lực tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy 
sinh trong học tập và cuộc sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách 
thiết thực, hiệu quả. Năng lực sáng tạo thể hiện sự linh hoạt, nhạy bén, ứng biến 
nhanh nhạy của học sinh với các đơn vị kiến thức và các tình huống.
 * Năng lực hợp tác: là hình thức HS làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để 
hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc 
lẫn nhau, giúp đỡ nhau để cùng giải quyết vấn đề. Khi làm việc cùng nhau, HS học 
cách làm việc chung, lắng nghe người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề 
theo hướng dân chủ. 
 * Năng lực tự quản bản thân: Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi 
con người trong việc kiểm soát cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống 
của cuộc sống, ở việc biết lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng 
nhận ra và tự điều chỉnh hành vi của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả 
năng tự quản bản thân giúp mỗi người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với 
những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và 
tôn trọng chính bản thân mình. 
 * Năng lực giao tiếp: Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người 
nói và người nghe, nhằm đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin 
được thực hiện bằng nhiều phương tiện, tuy nhiên phương tiện quan trọng nhất 
trong giao tiếp là ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết 
và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự 
vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được 
mục đích. 
 Ngoài những năng lực chung được nêu trên, môn Ngữ văn ít nhiều có thế 
mạnh trong những trường hợp nhất định của quá trình dạy học, những năng lực 
chung khác cũng cần được hướng tới. Chẳng hạn, năng lực sử dụng công nghệ 
thông tin khai thác các nguồn thông tin mạng, những hình ảnh trực quan về các chi 
tiết nghệ thuật được miêu tả bằng ngôn ngữ văn học.
 7.1.1.4. Mục tiêu của việc phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh 
theo phương pháp dạy học theo dự án STEAM.
 Thứ nhất, giáo dục STEAM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách 
tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì 
dạy các môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEAM kết hợp chúng 
thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh người học kỹ năng thế kỷ 21 như kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, giao 
tiếp, làm việc nhóm Khuyến khích tinh thần tự chủ, tự học của người học. 
Người học chủ động chiếm lĩnh trí thức, rèn kỹ năng và tạo ra sản phẩm có ích 
cho cộng động, xã hội. Khích lệ sử dụng công nghệ thông tin vào quá trình học 
tập.
 7.1.1.5. Những ưu điểm và hạn chế của dạy học theo dự án STEAM khi 
ứng dụng vào môn Ngữ văn.
 a. Về ưu điểm
 Dạy học theo dự án STEAM sẽ giúp học sinh biết cách gắn lý thuyết với 
thực hành, tư duy và hành động, gắn kiến thức trong nhà trường và kiến thức 
ngoài thực tế xã hội.
 Cách học theo dự án STEAM sẽ góp phần kích thích động cơ, hứng thú học 
tập của người học: từ phụ thuộc giáo viên sang hoạt động nhóm, giúp người học từ 
thụ động ghi nhớ sang khám phá tích hợp và trình bày.
 Học theo dự án STEAM cũng giúp người học từ hình thức học thụ động 
sang hình thức học chủ động có định hướng.
 Ngoài ra cách học dự án STEAM còn góp phần phát huy tính tự lực, tính 
trách nhiệm; phát triển khả năng sáng tạo; rèn luyện năng lực giải quyết những vấn 
đề phức hợp; rèn kỹ năng làm việc nhóm; phát triển năng lực đánh giá.
 b. Về hạn chế:
 Dạy học theo dự án STEAM không phù hợp trong việc truyền thụ kiến thức lí 
thuyết mang tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kĩ năng cơ bản.
 Cách học này cũng đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy không thay thế cho 
phương pháp thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần thiết 
cho các phương pháp dạy học truyền thống.
 Đặc biệt cái khó của học theo dự án STEAM là đòi hỏi phương tiện vật chất 
và phương tiện phù hợp.
 7.1.1.6. Tiến trình thường gặp của hình thức dạy học theo dự án 
STEAM.
 a. Sự chuẩn bị: Gồm các bước dưới đây
 * Xây dựng ý tưởng: Tìm hiểu, phát hiện vấn đề thực tiễn cần giải quyết.
 * Lựa chọn chủ đề, tiểu chủ đề: Lựa chọn một trong những vấn đề đã phát 
hiện để làm dự án.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_giao_duc_steam_tr.doc