Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 THPT (sách Kết nối tri thức), nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh
Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) mới - được xây dựng theo định hướng tiếp cận năng lực, phù hợp với xu thế phát triển chương trình của các nước tiên tiến, nhằm thực hiện yêu cầu của Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội: "Tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà trí, đức, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh". Đổi mới phương pháp dạy học được cho là vấn đề chiến lược, có tính đột phá cho việc thực hiện chương trình này. Một trong những phương pháp dạy học phát huy được năng lực tự học, đặc biệt là năng lực thực hành, thí nghiệm của người học để đáp ứng với yêu cầu của chương trình GDPT mới và nâng cao chất lượng giáo dục là phương pháp “Bàn tay nặn bột”. "Bàn tay nặn bột"(BTNB) là phương pháp dạy học tích cực dựa trên cơ sở của sự tìm tòi- nghiên cứu, có thể phát huy cao tính tích cực, tự lực trong nhận thức của học sinh, vừa đi sâu vào phát triển tư duy, vừa đảm bảo được nội dung thực nghiệm. Phương pháp bàn tay nặn bột hình thành kiến thức mới cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi, nghiên cứu để chính người học tìm ra câu trả lời cho những vấn đề trong cuộc sống. Học sinh tự đưa ra giả thuyết khoa học, tự bố trí thí nghiệm, thực hành thí nghiệm,… Như chúng ta đã biết Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, với hầu hết các kiến thức, khái niệm, quá trình,…đều bắt nguồn từ thực tiễn. Vì vậy, thí nghiệm có vai trò quan trọng trong việc kết nối kiến thức lý thuyết với thực tiễn. Qua đó giúp học sinh hình thành, phát triển các năng lực quan sát, phân tích, làm thí nghiệm, thực hành. Sinh học 10 theo chương trình GDPT 2018 tập trung nghiên cứu sinh học tế bào, vi sinh vật và virut. Đây là những kiến thức mới, kích thích được hứng thú, sáng tạo của học sinh; sau mỗi chương đều có bài thực hành giúp học sinh vận dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn đời sống đồng thời phát huy được năng lực thực hành, thí nghiệm, tìm tòi, sáng tạo của người học. Song thực tế dạy học cho thấy kỹ năng thực hành của học sinh còn hạn chế, đôi lúc không đem lại hiệu quả. Mặt khác nhiều giáo viên còn ngại vào phòng thực hành, ngại làm thí nghiệm. Việc dạy học hướng tới phát triển năng lực cho học sinh chưa được chú trọng, nhất là năng lực thực hành, thí nghiệm.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 THPT, nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh”.
Từ những lý do trên, chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 THPT, nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh”.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 THPT (sách Kết nối tri thức), nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 THPT (sách Kết nối tri thức), nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh

2. Mục đích nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu sâu vào việc vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh. - Ngoài ra thông qua đề tài giúp bản thân và các đồng nghiệp đổi mới PPDH, nâng cao năng lực dạy học đáp ứng được yêu cầu của chương trình GDPT mới. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, làm rõ cơ cở lý luận và thực tiễn của đề tài - Tiến hành khảo sát, điều tra thực trạng việc sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho học sinh trong môn Sinh học ở các trường THPT trên địa bàn công tác - Xây dựng nguyên tắc và quy trình vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học. - Đề xuất phương pháp và thiết kế các hoạt động vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10. - Vận dụng phương pháp BTNB để tổ chức dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 - Thực nghiệm sư phạm để kiểm tra, đánh giá hiệu quả của việc sử dụng phương pháp BTNB trong dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10. Từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học khi vận dụng phương pháp BTNB. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Sử dụng phương pháp BTNB để tổ chức dạy học phần “Trao đổi chất qua màng tế bào”- Sinh học 10 nhằm phát huy năng lực thực hành, thí nghiệm cho HS. 4.2. Phạm vi nghiêm cứu - Đề tài nghiên cứu, khảo sát việc sử dụng phương pháp BTNB của các giáo viên Sinh học và học sinh khối 10 trong các trường THPT trên địa bàn huyện Đô Lương. - Thời gian nghiên cứu: áp dụng cho học sinh khối 10 tại các trường THPT trên địa bàn công tác trong năm học 2022-2023. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; Phương pháp điều tra; Phương pháp quan sát; Phương pháp làm việc trong phòng thí nghiệm; Phương pháp nghiên cứu quan sát các sản phẩm 2 PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Trên thế giới Giáo sư Georges Charpak (1924-2010)-Viện hàn lâm khoa học Pháp, là người khai sinh ra phương pháp BTNB. Năm 1995, ông dẫn một đoàn gồm các nhà khoa học và các đại diện của Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đến một khu phố nghèo ở Chicago của nước Mỹ, nơi có một phương pháp dạy học khoa học dựa trên việc thực hành, thí nghiệm đang được thử nghiệm. Tháng 4/1996, hội thảo nghiên cứu được tổ chức tại Poitiers(miền Trung nước Pháp), tại đây kế hoạch hành động đã được giới thiệu và triển khai. Tháng 9/1996, cuộc thử nghiệm đầu tiên được tiến hành bởi Bộ Giáo dục quốc gia Pháp với cuộc thi giữa 5 tỉnh thu hút được nhiều giáo viên và trường học tham gia. Ngay khi mới ra đời, phương pháp BTNB đã được tiếp nhận và truyền bá rộng rãi. Nhiều quốc gia trên thế giới đã hợp tác với Viện Hàn lâm khoa học Pháp trong việc phát triển phương pháp này như: Brazil, Bỉ, Afghanisstan, Campuchia, Chilê, Trung Quốc, Thái Lan, Colombia, Hy lạp, Malaysia, Marốc, Serbi, Thụy Sỹ, Đức. Tháng 7/2004, trường hè Quốc tế về BTNB với chủ đề “Bàn tay nặn bột trên thế giới: trao đổi, chia sẻ, đào tạo” đã được tổ chức bởi Erice – Ý dành cho các chuyên gia Pháp và các nước. Hội đồng khoa học Quốc tế (International Council for Science – ICS) và Hội các Viện Hàn lâm Quốc tế (International Academy Panel – IAP) phối hợp tài trợ để thành lập cổng thông tin điện tử về giáo dục khoa học, trong đó nội dung phương pháp BTNB được đưa vào. Nhiều dự án theo vùng lãnh thổ, châu lục được hình thành để giúp đỡ, hỗ trợ cho việc phát triển phương pháp BTNB tại các quốc gia. Tính đến năm 2009, có khoảng hơn 30 nước tham gia trực tiếp vào chương trình BTNB. 1.1.2. Ở Việt Nam Phương pháp dạy học BTNB được đưa vào Việt Nam là sự cố gắng nỗ lực to lớn của Hội Gặp gỡ Việt Nam. Hội Gặp gỡ Việt Nam được thành lập vào năm 1993 theo luật Hội đoàn 1901 của Cộng hòa Pháp do Giáo sư Jean Trần Thanh Vân-Việt kiều tại Pháp làm Chủ tịch. Hội tập hợp các nhà khoa học ở Pháp với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ Việt Nam trong các lĩnh vực khoa học, giáo dục; tổ chức các hội thảo khoa học, trường học về Vật lý; trao học bổng khuyến học, khuyến tài cho học sinh và sinh viên Việt Nam. Phương pháp BTNB được giới thiệu tại Việt Nam cùng với thời điểm mà phương pháp này mới ra đời và bắt đầu thử nghiệm áp dụng trong dạy học ở Pháp. Đã có nhiều đợt tập huấn về BTNB của bộ giáo dục vầ đào tạo phối hợp với các Sở GD ĐT cuả các địa phương như: Hà Nội (2004,2005), Thành phố HCM (2008), Đà 4 não, trao đổi với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. - Lựa chọn kiến thức khoa học trong phương pháp BTNB: Việc xác định kiến thức khoa học phù hợp từng đối tượng học sinh là một vấn đề quan trọng đối với giáo viên. Giáo viên phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến thức này không? Giới thiệu vào thời điểm nào? Cần yêu cầu học sinh hiểu ở mức độ nào? Giáo viên có thể tìm câu hỏi này thông qua việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ giáo viên để xác định rõ hàm lượng kiến thức tương đối với trình độ, độ tuổi của học sinh và điều kiện địa phương. - Cách thức học tập của học sinh: Phương pháp BTNB dựa trên thực nghiệm và nghiên cứu cho phép giáo viên hiểu rõ hơn cách thức mà học sinh tiếp thu các kiến thức khoa học. Phương pháp BTNB cho thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu. 1.2.1.3. Những nguyên tắc cơ bản của phương pháp BTNB - Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó. - Trong quá trình tìm hiểu, học sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên. - Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn. - Cần một lượng tối thiểu là 2 tiết/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập. - Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em. - Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của học sinh. 1.2.1.4. Một số phương pháp tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu - Phương pháp quan sát: Quan sát được sử dụng để: Giải quyết một vấn đề; Miêu tả một sự vật, hiện tượng; Xác định đối tượng; Kết luận. - Phương pháp thí nghiệm trực tiếp: Một thí nghiệm yêu cầu học sinh trình bày nên đảm bảo 4 phần chính: Vật liệu thí nghiệm; Bố trí thí nghiệm; Kết quả thu được; Kết luận. - Phương pháp làm mô hình: Để làm được mô hình cần có: Vật liệu làm mô hình; Cách tiến hành; Kết quả thu được; Kết luận. 6 linh hoạt điều khiển thảo luận của HS nhằm giúp HS đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của HS để ghi chép (đối với mô tả bằng lời) hoặc gắn hình vẽ lên bảng hoặc vẽ nhanh lên bảng (đối với hình vẽ), GV cần khéo léo gợi ý cho HS so sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản đó GV giúp HS đề xuất các câu hỏi. Sau khi giúp HS so sánh và gợi ý để HS phân nhóm các ý kiến ban đầu, GV hướng dẫn HS đặt các câu hỏi nghi vấn. Từ các câu hỏi được đề xuất, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh, đề nghị các em đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Sau khi học sinh đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, giáo viên nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn. Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án. Lưu ý rằng phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu ở đây được hiểu là các phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, thực hành - thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu Từ các phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu mà học sinh nêu ra, giáo viên khéo léo nhận xét và lựa chọn thí nghiệm để học sinh tiến hành. Ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trên vật thật có thể cho làm mô hình, hoặc cho học sinh quan sát tranh vẽ. Bước 5: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. 1.2.1.6. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp BTNB - Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học - Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm, thực hành. - Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ nhận thức của học sinh trong vở thí nghiệm, thực hành. 1.2.2. Lý thuyết năng lực thực hành thí nghiệm 1.2.2.1. Khái niệm thực hành, thí nghiệm - Thực hành - thí nghiệm là tự mình tiến hành làm các thí nghiệm, trực tiếp quan sát các thí nghiệm, học sinh hiểu rõ mục đích thí nghiệm, điều kiện thí nghiệm. Qua thí nghiệm học sinh xác định được bản chất của các hiện tượng quan sát được. 8 dụng cụ; NL đọc, hiểu các kí hiệu, số liệu kĩ thuật và giới hạn sử dụng trên dụng cụ; NL chuẩn bị dụng cụ TN, TH. - NL bố trí TN, TH: + Bố trí TN, TH là sắp xếp, lắp ráp các dụng cụ một cách trật tự, hợp lý và bảo đảm an toàn trong khi làm TN, TH. + Sự bố trí thích hợp sẽ giúp quan sát được rõ ràng hiệu quả. Ngoài ra, trong chương trình SGK có một số TN yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn cháy nổ trong khi làm TN do đó nếu bố trí không hợp lý có thể xảy ra sự cố nguy hiểm như cháy nổ. - NL thu thập số liệu, kết quả TN, TH: + Việc thu thập số liệu là căn cứ, cơ sở để phân tích và đưa ra kết luận cuối cùng cho một bài TN, TH. Vì vậy cần ghi chép một cách có hệ thống, lập thành bảng biểu cho dễ đối chiếu, so sánh. + Để rèn luyện NL này HS cần thực hiện các hành động như thao tác với dụng cụ TN, TH, quan sát diễn biến, quan sát và ghi lại kết quả TN, TH. - NL xử lý số liệu, nhận xét, đánh giá : + Đây cũng là NL quan trọng trong quá trình thực hiện một bài TN, TH. + NL xử lý số liệu bao gồm các NL: Quan sát hiện tượng, giải thích hiện tượng, rút ra mối quan hệ giữa các số liệu thu thập được. + Sau khi xử lý xong số liệu thì cần đưa ra nhận xét xem kết quả có như mong đợi. Cuối cùng, yêu cầu HS đề xuất phương án làm giảm sai lệch so với lý thuyết. - NL sửa chữa và chế tạo dụng cụ TN, TH: Trong quá trình sử dụng dụng cụ TN, TH HS sẽ dễ dàng phát hiện những hư hỏng, nếu đó là những hư hỏng nhẹ như đứt dây, hỏng vít thì GV có thể yêu cầu các em tự sửa chữa, khắc phục. Nếu thiết bị không thể sử dụng lại lần sau hoặc không có sẵn thì GV cũng có thể hướng dẫn các em chế tạo dụng cụ khác thay thế. Đối với HS khá, giỏi có thể yêu cầu chế tạo những dụng cụ phức tạp và tinh tế hơn. * Bộ tiêu chí đánh giá năng lực TN, TH của học sinh Tiêu chí 1. Lập được bản kế hoạch TN, TH hợp lý Mức 1 Chưa tự lập được kế hoạch TN, TH GV cần phải đưa ra phương án TN, TH và mẫu kế hoạch TN, TH để HS bắt chước và sao chép rập khuôn các bước lập kế hoạch của GV. Mức 2 Đã lập được bản kế hoạch nhưng còn sơ sài, phương án TN, TH thiếu tính khả thi, vẫn cần sự định hướng và chỉ dẫn của GV. 10
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_van_dung_phuong_phap_ban_tay_nan_bot_v.pdf