Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức một số hoạt động trải nghiệm trong dạy đọc hiểu Ngữ văn Lớp 10 Kết nối tri thức nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực cho học sinh trường THPT Diễn Châu 2
Môn Ngữ văn là bộ môn mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn, nó có vai trò rất quan trọng trong chương trình THPT. Ngữ văn là môn học quyết định đối với việc hình thành phẩm chất và nhân cách đạo đức cho học sinh; là môn học giúp học sinh rèn luyện năng lực giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Đồng thời nó cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,...
Trong giáo dục hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học luôn là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Quá trình đổi mới đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học.
Tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho mọi môn học đặc biệt là môn Ngữ văn nhằm phát triển cho học sinh những năng lực đặc thù của môn học. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm trong thực tiễn để tích lũy và chiêm nghiệm các kinh nghiệm, từ đó có thể khái quát thành hiểu biết theo cách của riêng mình, đó được gọi là sáng tạo cuả bản thân.
Đổi mới dạy học môn Ngữ văn gắn liền với hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là một trong những phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động góp phần hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất người học; tạo hứng thú, tăng tính tích cực cho người học. Là một giáo viên dạy Ngữ văn, trong quá trình dạy học bản thân tôi luôn trăn trở để tìm hiểu cách thức thực hiện các kĩ thuật, phương pháp, hình thức dạy học để đổi mới phương pháp giảng dạy từ đó phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, làm cho học sinh yêu thích môn học.
Xuất phát từ các lí do trên trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện đề tài “Tổ chức một số hoạt động trải nghiệm trong dạy đọc hiểu Ngữ văn lớp 10 nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực cho học sinh trường THPT Diễn Châu 2” làm đề tài cho sáng kiến của mình.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức một số hoạt động trải nghiệm trong dạy đọc hiểu Ngữ văn Lớp 10 Kết nối tri thức nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực cho học sinh trường THPT Diễn Châu 2
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Môn Ngữ văn là bộ môn mang tính công cụ và tính thẩm mĩ - nhân văn, nó có vai trò rất quan trọng trong chương trình THPT. Ngữ văn là môn học quyết định đối với việc hình thành phẩm chất và nhân cách đạo đức cho học sinh; là môn học giúp học sinh rèn luyện năng lực giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác trong nhà trường. Đồng thời nó cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc; phát triển ở học sinh những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha,... Trong giáo dục hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học luôn là một đòi hỏi hết sức quan trọng. Quá trình đổi mới đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho mọi môn học đặc biệt là môn Ngữ văn nhằm phát triển cho học sinh những năng lực đặc thù của môn học. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo, tạo cơ hội cho học sinh trải nghiệm trong thực tiễn để tích lũy và chiêm nghiệm các kinh nghiệm, từ đó có thể khái quát thành hiểu biết theo cách của riêng mình, đó được gọi là sáng tạo cuả bản thân. Đổi mới dạy học môn Ngữ văn gắn liền với hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là một trong những phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động góp phần hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất người học; tạo hứng thú, tăng tính tích cực cho người học. Là một giáo viên dạy Ngữ văn, trong quá trình dạy học bản thân tôi luôn trăn trở để tìm hiểu cách thức thực hiện các kĩ thuật, phương pháp, hình thức dạy học để đổi mới phương pháp giảng dạy từ đó phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, làm cho học sinh yêu thích môn học. Xuất phát từ các lí do trên trên, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện đề tài “Tổ chức một số hoạt động trải nghiệm trong dạy đọc hiểu Ngữ văn lớp 10 nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực cho học sinh trường THPT Diễn Châu 2” làm đề tài cho sáng kiến của mình. 2. Mục đích nghiên cứu PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1.Cơ sở lí luận 1.1.1. Kiến thức về hoạt động trải nghiệm 1.1.1.1. Khái niệm Hoạt động trải nghiệm sáng tạo “Trải nghiệm” là phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo dục, hoạt động này giúp cho học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm để vận dụng những kiến thức học được vào thực tiễn từ đó hình thành năng lực thực tiễn cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Theo chương trình giáo dục phổ thông mới "HĐTN là các hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường phổ thông hoặc trong xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, các kỹ năng và tích luỹ kinh nghiệm riêng của cá nhân”. Trong tài liệu tập huấn “Kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường trung học” của nhóm tác giả Nhóm tác giả: PGS. TS. Nguyễn Thúy Hồng; PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa;TS. Ngô Thị Thu Dung; TS. Trần Văn Tính;TS. Nguyễn Văn Hiền; ThS. Bùi Ngọc Diệp;ThS. Nguyễn thị Thu Anh; TS. Phan Thị Luyến; Ths. Nguyễn Thị hoạt động trải nghiệm sáng tạo được định nghĩa như sau: Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực, từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Như vậy, hoạt động TNST hướng đến những phẩm chất và năng lực chung như đã được đưa ra trong Chương trình mới, ngoài ra hoạt động TNST còn có ưu thế trong việc thúc đẩy hình thành ở người học các năng lực đặc thù như: Năng lực hoạt động và tổ chức hoạt động; năng lực tổ chức và quản lý cuộc sống; năng lực tự nhận thức và tích cực hóa bản thân; năng lực định hướng nghề nghiệp; năng lực khám phá và sáng tạo. 1.1.1.2. Các hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo Dưới đây là một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo mà bản thân tôi đã áp dụng để giảng dạy trong Chương trình Ngữ văn ở trường THPT. Hoạt động câu lạc bộ (CLB): Câu lạc bộ là hình thức sinh hoạt ngoại khóa của những nhóm học sinh cùng sở thích, nhu cầu, năng khiếu, dưới sự định hướng của những nhà giáo dục nhằm tạo môi trường giao lưu thân thiện, tích cực giữa các học sinh với nhau và giữa học sinh với thầy cô giáo, với những người lớn khác. Tổ chức trò chơi: Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi mà học, học mà chơi”. Tổ chức diễn đàn: Diễn đàn là một hình thức tổ chức hoạt động được sử dụng để thúc đẩy sự tham gia của học sinh thông qua việc các em trực tiếp, chủ động bày tỏ ý kiến của mình với đông đảo bạn bè, nhà trường, thầy cô giáo, cha mẹ và những người lớn khác có liên quan. Hội thi / cuộc thi: Hội thi/cuộc thi là một trong những hình thức tổ chức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn học sinh và đạt hiệu quả cao trong việc tập hợp, giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho tuổi trẻ. Hội thi mang tính chất thi đua giữa các cá nhân, nhóm hoặc tập thể luôn hoạt động tích cực để vươn lên đạt được mục tiêu mong muốn thông qua việc tìm ra người/đội thắng cuộc. Chính vì vậy, tổ chức hội thi cho học sinh là một yêu cầu quan trọng, cần thiết của nhà trường, của giáo viên trong quá trình tổ chức HĐTNST. Tham quan, dã ngoại: Tham quan, dã ngoại là một hình thức tổ chức học tập thực tế hấp dẫn đối với học sinh. Mục đích của tham quan, dã ngoại là để các em học sinh được đi thăm, tìm hiểu và học hỏi kiến thức, tiếp xúc với các di tích lịch sử, văn hóa, công trình, nhà máy, biểu diễn nghệ thuật truyền thống ở xa nơi các em đang sống, học tập, giúp các em có được những kinh nghiệm thực tế, từ đó có thể áp dụng vào cuộc sống của chính các em. 1.1.1.3. Ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo - Rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, - Phản ánh được chủ đề và nội dung của hoạt động. - Tạo được ấn tượng ban đầu cho học sinh. Bước 3: Xác định mục tiêu của hoạt động Mỗi hoạt động đều thực hiện mục đích chung của mỗi chủ đề theo từng tháng nhưng cũng có những mục tiêu cụ thể của hoạt động đó. Các mục tiêu hoạt động cần phải được xác định rõ ràng, cụ thể và phù hợp; phản ánh được các mực độ cao thấp của yêu cầu cần đạt về tri thức, kĩ năng, thái độ và định hướng giá trị. Tác dụng của việc xác định mục tiêu: - Định hướng cho hoạt động, là cơ sở để chọn lựa nội dung và điều chỉnh hoạt động, - Căn cứ để đánh giá kết quả hoạt động - Kích thích tính tích cực hoạt động của thầy và trò Tùy theo chủ đề của HĐTNST ở mỗi tháng, đặc điểm HS và hoàn cảnh riêng của mỗi lớp mà hệ thống mục tiêu sẽ được cụ thể hóa và mang màu sắc riêng. Khi xác định mục tiêu cần phải trả lời các câu hỏi sau: - Hoạt động này có thể hình thành cho học sinh những kiến thức ở mức độ nào? - Những kỹ năng nào có thể được hình thành ở học sinh và các mức độ của nó đạt được sau khi tham gia hoạt động? - Những thái độ, giá trị nào có thể được hình thành hay thay đổi ở học sinh sau hoạt động? Bước 4: Xác định nội dung và phương pháp, phương tiện, hình thức của hoạt động Trước hết, cần căn cứ vào từng chủ đề, các mục tiêu đã xác định, các điều kiện hoàn cảnh cụ thể của lớp, của nhà trường và khả năng của học sinh để xác định các nội dung phù hợp cho các hoạt động. Cần liệt kê đầy đủ các nội dung hoạt động phải thực hiện. Từ nội dung, xác định cụ thể phương pháp tiến hành, xác định những phương tiện cần có để tiến hành hoạt động. Từ đó lựa chọn hình thức hoạt động tương ứng. Có thể một hoạt động nhưng có nhiều hình thức khác nhau được thực hiện đan xen hoặc trong đó có một hình thức nào đó là chủ đạo, còn hình thức khác là phụ trợ. tiến thời tham trách thực hình đạt trình hạn gia nhiệm hiện, thức (hoặc chính chi phí sản phẩm) Bước 7: Kiểm tra, điều chỉnh và hoàn thiện chương trình hoạt động - Rà soát, kiểm tra lại nội dung và trình tự của các việc, thời gian thực hiện cho từng việc, xem xét tính hợp lý, khả năng thực hiện và kết quả cần đạt được. - Nếu phát hiện những sai sót hoặc bất hợp lý ở khâu nào, bước nào, nội dung nào hay việc nào thì kịp thời điều chỉnh. Cuối cùng, hoàn thiện bản thiết kế chương trình hoạt động và cụ thể hóa chương trình đó bằng văn bản. Đó là giáo án tổ chức hoạt động. Bước 8: Lưu trữ kết quả hoạt động vào hồ sơ của học sinh 1.1.2. Kiến thức về năng lực, phẩm chất 1.1.2.1. Phẩm chất Theo từ điển Tiếng Việt: “Phẩm chất là cái làm nên giá trị của người hay vật”. Chương trình giáo dục phổ thông, “Phẩm chất là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách con người”. Các phẩm chất mà chương trình giáo dục phổ thông hướng đến là: Yêu nước; Nhân ái; Trung thực; Trách nhiệm. 1.1.2.2.Năng lực Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã xác định: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể” Chương trình giáo dục phổ thông hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực cốt lõi sau: Những năng lực chung được hình thành, phát triển thông qua tất cả các môn học và hoạt động giáo dục: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; Những năng lực đặc thù được hình thành, phát triển chủ yếu thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục nhất định: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực khoa học, năng lực công nghệ, năng lực tin học, năng lực thẩm mĩ, năng lực thể chất. Về kĩ năng: Nhiệm vụ giáo dục ở mỗi nhà trường không ngoài mục đích phát triển con người toàn diện cả về nhân - trí - thể - mỹ, vì vậy khi học tập tại trường, học sinh cần được trang bị những kĩ năng: kỹ năng giao tiếp xã hội, kĩ năng hoạt động, học tập, hoạt động trải nghiệm sáng tạo, kĩ năng làm việc đồng đội, kĩ năng tổ chức công việc và quản lí thời gian, Các em chưa quen thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập. Khả năng tập trung, chấp hành những qui định chung và làm theo sự chỉ dẫn của thầy cô còn nhiều hạn chế. Thực tế này đặt ra vấn đề cần hình thành những kĩ năng thiết yếu cho học sinh để các em bắt nhịp tốt với môi trường học tập và sinh hoạt chung. Về tâm lí: Học sinh THPT bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến những phẩm chất nhân cách của mình, các em có biểu hiện nhu cầu tự đánh giá, so sánh mình với người khác. Điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, dễ bị kích động, vui buồn thường hay đan xen, tình cảm còn mang tính bồng bột. Đặc điểm này là do ảnh hưởng của sự phát dục và sự thay đổi về tâm sinh lí, nhiều khi do hoạt động hệ thần kinh không cân bằng, quá trình hưng phấn thường mạnh hơn quá trình ức chế, khiến các em không tự kiềm chế được bản thân. Khi tham gia các hoạt động vui chơi, học tập, lao động các em đều thể hiện tình cảm rõ rệt và mạnh mẽ. Bên cạnh đó, do điều kiện địa lí, xã hội, môi trường giao tiếp hạn hẹp nên các em học sinh chưa phát huy được vai trò chủ động trong học tập cũng như lao động. Với tâm lí nhút nhát, e dè, hạn chế trong giao tiếp là cản trở lớn đối với các hoạt động nhóm của các em khi học tập tại trường. Về học tập: động cơ học tập của học sinh THPT rất phong phú đa dạng, nhưng chưa bền vững, nhiều khi còn thể hiện sự mâu thuẫn. Nhìn chung, các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của học tập, nhưng thái độ và sự biểu hiện rất khác nhau. 1.2.2. Thực trạng hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học môn Ngữ văn lớp 10 hiện nay 1.2.2.1. Cấu trúc chương trình Ngữ văn 10 Ngữ văn 10 có 09 bài học, gồm hai tập: Tập 1 có 05 bài học: Sức hấp dẫn của truyện kể, Vẻ đẹp của thơ ca, Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, Sức sống của Sử thi, Tích trò sân khấu dân gian. CHƯƠNG 2: MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM TRONG ĐỌC HIỂU NGỮ VĂN 10 NHẰM NÂNG CAO PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CHO HỌC SINH LỚP 10 2.1. Tổ chức trò chơi Trò chơi là một loại hình hoạt động giải trí, thư giãn; là món ăn tinh thần nhiều bổ ích và không thể thiếu được trong cuộc sống con người nói chung, đối với học sinh nói riêng. Trò chơi là hình thức tổ chức các hoạt động vui chơi với nội dung kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có tác dụng giáo dục “chơi mà học, học mà chơi”. Mục đích của trò chơi nhằm lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động giáo dục một cách tự nhiên và tăng cường tính trách nhiệm; hình thành cho học sinh tác phong nhanh nhẹn, phát huy tính sáng tạo cũng như tăng cường sự thân thiện, hòa đồng giữa các học sinh, tạo hứng thú, xua tan căng thẳng, mệt mỏi cho các em học sinh trong quá trình học tập và giúp cho quá trình học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan nhàm chán. Tham gia trò chơi học sinh sẽ phát huy tính sáng tạo, gây hứng thú cho học sinh; giúp cho học sinh dễ tiếp thu kiến thức mới; giúp chuyển tải nhiều tri thức của nhiều lĩnh vực khác nhau; tạo được bầu không khí thân thiện;... Các trò chơi được thường xuyên tổ chức trong nhà trường phổ thông là: -Trò chơi học tập: Là loại trò chơi được sử dụng để củng cố, mở rộng, kiểm tra kiến thức học trên lớp. - Trò chơi vận động: Là loại trò chơi để rèn luyện, củng cố các tố chất cơ thể. - Trò chơi khởi động là loại trò chơi dùng để tạo bầu không khí sôi động, vui vẻ, tạo tâm trạng vui vẻ, tạo tâm thế cho hóc inh trước khi bắt đầu hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể hoặc bắt đầu tổ chức. - Trò chơi mô phỏng: là sự bắt chước, phỏng theo một hiện tượng, sự vật hay quá trình nào đó bằng cách xây dựng những mô hình động, xử lý chúng trong tác động qua lại nhằm nghiên cứu các hiện tượng, sự vật, quá trình đó trên những mô hình này. Trong giờ học Ngữ văn, các trò chơi thường được giáo viên lựa chọn để tổ chức là Trò chơi học tập và Trò chơi khởi động. Đối với dạy chủ đề Nguyễn Trãi, trong phần khởi động, GV tổ chức các trò chơi giải ô chữ, trò chơi ghép nối hình ảnh, câu thơ để tìm tên tác phẩm, Ai nhanh hơn ai,
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_mot_so_hoat_dong_trai_nghiem_t.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức một số hoạt động trải nghiệm trong dạy đọc hiểu Ngữ văn Lớp 10 Kết nối.pdf