Sáng kiến kinh nghiệm Tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua việc học sinh tự làm đồ dùng học tập Hóa học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh khối 10, theo bộ SGK mới
Hoá học là bộ môn khoa học quan trọng trong nhà trường phổ thông. Môn hoá học cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hoá học, giáo viên bộ môn hoá học cần hình thành ở các em một kỹ năng cơ bản, phổ thông và thói quen học tập và làm việc khoa học làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động. Có những phẩm chất cần thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội có thể hoà hợp với môi trường thiên nhiên, chuẩn bị cho học sinh lên và đi vào cuộc sống lao động. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định giáo viên phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh. Để thực hiện được bước chuyển đó thì khâu đột phá là đổi mới phương pháp giáo dục từ lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo: tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí thông tin,…Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. “Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, sáng tạo, hợp tác,…dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai…Giúp học sinh nhận thức được những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân và cho sự phát triển xã hội. Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm,hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào gỉai quyết vấn đề. Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ động nổ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình. Thực trạng dạy và học Hoá học hiện nay nhiều học sinh không hứng thú với môn Hoá học, kĩ năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống còn nhiều hạn chế. Đây là hệ quả của một thời gian khá dài trong chương trình giáo dục nói chung, THPT nói riêng dạy theo hướng “ứng thi” ít chú trọng đến các nội dung thực tế, thực hành, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong và ngoài không gian lớp học, Mặt khác kiến thức hóa học tương đối nhiều và khó mà khả năng ghi nhớ của học sinh còn hạn chế, bên cạnh các em gần như đã bị mất kiến thức cơ bản từ các lớp dưới nên việc dạy và học hóa học ở các lớp THPT gặp không ít khó khăn. Do đó giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo hứng thú, nâng cao chất lượng học tập bộ môn, phát triển năng lực cho học sinh nói chung, năng lực chuyên biệt môn Hoá học nói riêng. Một trong những biện pháp để đổi mới phương pháp dạy học đó là giáo viên cần phải sử dụng có hiệu quả đồ dùng học tập. Trên thực tế, do nguyên nhân khách quan và chủ quan mà ở hầu hết các trường trung học phổ thông, việc sử dụng các đồ dùng học tập còn rất hạn chế là gây ra sự nhàm chán cho học sinh và chưa phát huy được vai trò, tác dụng vốn có của nó trong quá trình dạy học đồng thời chưa kích thích niềm đam mê của học sinh trong tiết học Hóa. Xuất phát từ những thực tế đó, nhằm để cải thiện không khí tiết học, lôi cuốn học sinh học tập tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Sau một thời gian tham gia giảng dạy đúc kết một số kinh nghiệm của bản thân tôi chọn đề tài “ Tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua việc học sinh tự làm đồ dùng học tập Hóa học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh khối 10” áp dụng cho khối lớp 10 để cùng tham khảo thực hiện và rút ra kinh nghiệm cho quá trình dạy học sau này.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua việc học sinh tự làm đồ dùng học tập Hóa học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh khối 10, theo bộ SGK mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tích cực hóa hoạt động của học sinh thông qua việc học sinh tự làm đồ dùng học tập Hóa học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh khối 10, theo bộ SGK mới

SỞ GD&ĐT NGHỆ AN TRƯỜNG THPT DIỄN CHÂU 2 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tên đề tài: TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH THÔNG QUA VIỆC HỌC SINH TỰ LÀM ĐỒ DÙNG HỌC TẬP NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT CỦA HỌC SINH LỚP 10 LĨNH VỰC: HÓA HỌC Tác giả: 1. Trần Văn Dương 2. Lê Thị Trinh Tổ KHTN – Trường THPT Diễn Châu 2 Điện thoại: 0973152938 - 0372303780 Nghệ An, tháng 4 năm 2023 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Hoá học là bộ môn khoa học quan trọng trong nhà trường phổ thông. Môn hoá học cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thiết thực đầu tiên về hoá học, giáo viên bộ môn hoá học cần hình thành ở các em một kỹ năng cơ bản, phổ thông và thói quen học tập và làm việc khoa học làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động. Có những phẩm chất cần thiết như cẩn thận, kiên trì, trung thực, tỉ mỉ, chính xác, yêu chân lí khoa học, có ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội có thể hoà hợp với môi trường thiên nhiên, chuẩn bị cho học sinh lên và đi vào cuộc sống lao động. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định giáo viên phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất cho học sinh. Để thực hiện được bước chuyển đó thì khâu đột phá là đổi mới phương pháp giáo dục từ lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “phương pháp dạy học tích cực”. Làm cho “học” là quá trình kiến tạo: tìm tòi, khám phá, phát hiện, khai thác và xử lí thông tin,Học sinh tự mình hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. “Dạy” là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh: cách tự học, sáng tạo, hợp tác,dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương laiGiúp học sinh nhận thức được những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân và cho sự phát triển xã hội. Trong dạy học lấy người học làm trung tâm đòi hỏi người học tự thể hiện mình, phát triển năng lực làm việc nhóm,hợp tác với nhóm, với lớp. Sự làm việc theo nhóm này sẽ đưa ra cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo, kích thích các thành viên trong nhóm hăng hái tham gia vào gỉai quyết vấn đề. Sự hợp tác giữa người học với người học là hết sức quan trọng nhưng vẫn chỉ là ngoại lực, điều quan trọng nhất là cần phải phát huy nội lực là tính tự chủ, chủ động nổ lực tìm kiếm kiến thức của người học. Còn người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình học tập, đạo diễn cho người học tự tìm kiếm kiến thức và phương thức tìm kiếm kiến thức bằng hành động của chính mình. Thực trạng dạy và học Hoá học hiện nay nhiều học sinh không hứng thú với môn Hoá học, kĩ năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống còn nhiều hạn chế. Đây là hệ quả của một thời gian khá dài trong chương trình giáo dục nói chung, THPT nói riêng dạy theo hướng “ứng thi” ít chú trọng 1.5. NHIỆM VỤ NGHÊN CỨU - Nghiên cứu các phương pháp trong đổi mới giáo dục. - Nghiên cứu mục tiêu, nội dung các tiết học trong chương trình hóa học phổ thông lớp 10. - Nghiên cứu các đồ dùng học tập phù hợp với năng lực của học sinh, các em có thể tự làm hoặc làm dưới hướng dẫn của giáo viên để phục vụ cho việc học tập của các em. - Nghiên cứu những năng lực và phẩm chất nào học sinh sẽ đạt được khi tự làm đồ dùng học tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 1.6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu cơ sở lý thuyết đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm, phương pháp so sánh. - Thông qua tiết dạy trên lớp. 1.7. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI Đề tài này được xây dựng trên chương trình kiến thức hóa học được áp dụng cho học sinh THPT, nơi có điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đối tượng học sinh còn yếu kém trong chất lượng bộ môn. Tôi thấy phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp học sinh chủ động hơn, hứng thú hơn trong học tập, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển được một một phẩm chất và năng lực cho các em. + Năng lực: năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực vận dụng kiến thức... + Phẩm chất: Trung thực, chăm học và trách nhiệm... 1.8. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI: Đề tài này gồm 03 phần chính Phần I. Đặt Vấn Đề Phần II. Nội Dung Nghiên Cứu Phần III. Kết Luận 3 giải quyết, lập kế hoạch,Thực hiện kế hoạch một cách độc lập sáng tạo hoặc hợp tác nhằm: Thu thập thông tin; xử lí thông tin; chọn giả thuyết đúng hoặc sai. Nếu không đi đúng hướng học sinh lại lặp lại quá trình giải quyết vấn đề theo hướng khác; Đưa ra kết luận chính xác và ngắn gọn nhất, đáp án chính xác. Năng lực sáng tạo thông qua môn Hóa: Học sinh sẽ đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi để kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu, thực hiện phương án thực nghiệm. Sau đó, các em sẽ xây dựng báo cáo kết quả nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu một cách khoa học, sáng tạo. Đề tài được thực hiện trên cơ sở bản thân đúc rút kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy bộ môn Hóa học ở trườngTHPT Diễn Châu 2. Ngoài ra, bản thân còn kết hợp nghiên cứu tài liệu liên quan đến phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. 2.1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN Để kích thích tính tích cực học tập của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức mới và khắc sâu kiến thức cũ cho học sinh, phát triển các năng lực và phẩm chất cần thiết cho học sinh thì bản thân giáo viên cần xác định vai trò của mình đối với học sinh. + Giáo viên cần coi trọng lợi ích, nhu cầu, hứng thú học tập của học sinh phát huy huy tối đa các năng lực còn tìm ẩn của học sinh. Hình thành cho học sinh phương pháp học tập khoa học, năng lực sáng tạo, lòng say mê yêu thích bộ môn. + Phát huy tối đa tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. + Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nghiên cứu để tìm hướng giải phù hợp. Qua các cac hoạt động học tập chiễm lĩnh kiến thức hoặc luyện tập khắc sâu kiến thức nhằm tạo ra sự tích cực, tự lực sáng tạo trong học tập của học sinh. Giúp hình thành ở học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết. Bảng Kết quả điều tra về tình trạng học tập hợp tác theo nhóm của học sinh trong việc tự làm đồ dùng dạy học. Kết quả Vấn đề hỏi Câu trả lời S TL L % Rất yêu thích 51 24.29 Yêu thích 72 34.29 1. Cảm nhận của em khi học môn Hóa học? Bình thường 87 41.43 Không yêu 0 0 thích Rất quan 45 21.43 trọng Quan trọng 64 30.48 5 Kết quả Vấn đề hỏi Câu trả lời SL TL % 5. Trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm Chưa bao giờ 45 21.43 trong dạy học Hóa học, thầy cô có tổ chức Thỉnh thoảng 120 57.14 cho các bạn di chuyển, đổi vị trí thành viên, trao đổi giữa các nhóm không? Thường 45 21.43 xuyên 6. Sản phẩm hoạt động nhóm của các bạn có Chưa bao giờ 8 3.81 được treo lên lớp để chia sẻ với các nhóm, Thỉnh thoảng 104 49.52 tiếp nhận thông tin góp ý, đánh giá từ các nhóm không? Thường 98 46.67 xuyên Rất cần thiết 158 75.24 Cần thiết 41 19.52 7. Theo các bạn, việc treo kết quả hoạt động nhóm để cùng trao đổi, học tập và đánh giá Không cần 11 5.24 động viên lẫn nhau trong quá trình học tập là thiết có cần thiết không? Khá 51 24.29 Trung bình 72 34.29 Thông qua kết quả điều tra cho chúng ta thấy tỷ lệ học sinh(HS) yêu thích và rất yêu thích môn Hóa học là rất cao (58,58%), tỷ lệ HS xác định mức độ quan trọng của kiến thức môn Hóa học cũng rất cao (51,91%). Có được những kết quả đó là do tỷ lệ học sinh xác định mức độ dễ tiếp thu của kiến thức môn Hóa học từ dễ đến bình thường là khá cao (78,57%) và cũng là kết quả của việc vận dụng các Phương pháp dạy học (PPDH) và kỹ thuật dạy học(KTDH) tích cực, tổ chức các hoạt động dạy học của Giáo viên(GV) Hóa học phù hợp với nội dung kiến thức bộ môn (thể hiện ở mục 4, 5 với mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng rất cao). Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học thông qua các KTDH, việc GV sử dụng kết quả của các nhóm học tập để công khai – treo kết quả trong lớp học, tổ chức các hoạt động tham quan học hỏi, đánh giá và góp ý lẫn nhau giữa các nhóm còn chưa cao, qua đó chưa phát huy hết năng lực giao tiếp và hợp tác giữa các nhóm và cá nhân HS (mức độ thường xuyên chỉ đạt 46,67%, cá biệt có tới 3,81% là chưa bao giờ thực hiện) mặc dù tỷ lệ HS cho rằng việc treo kết quả hoạt động nhóm để cùng trao đổi, học tập và đánh giá động viên lẫn nhau trong quá trình học tập là rất cần thiết và cần thiết chiếm đến 94,76%. Như vậy, chứng tỏ việc vận dụng kết hợp nhuần nhuyễn, linh hoạt các KTDH nhằm phát triển năng lực HS, nhất là năng lực hợp tác của GV trong việc tổ chức các hoạt động dạy học cho HS là chưa cao. 2.2. THUẬN LỢI VÀ HẠN CHẾ KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 2.2. 1. Thuận lợi Trường THPT Diễn Châu 2 có đội ngũ giáo viên trình độ chuyên môn đồng đều, nhiệt tình trong công tác giảng dạy, luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng 7 2.3. MỘT SỐ ĐỒ DÙNG HỌC TẬP HÓA HỌC HỌC SINH CÓ THỂ TỰ LÀM PHỤC VỤ CHO CÁC TIẾT HỌC CỦA MÌNH 2.3.1. Sơ đồ tư duy Việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy - học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vẫn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống khoa học giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não học sinh sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và n đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của của mình..... Việc ứng dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp tích cực khác như vẫn đáp gợi mở, thuyết trình, hoạt động nhóm... có tính khả thi caco trong công tác đổi mới phương pháp dạy học. Sơ đồ tư duy là đồ dùng học tập đem lại hiệu quả rất cao trong việc phát triển tư duy sáng tạo của học sinh. Mặt khác, đây là đồ dùng rất dễ làm nên có thể áp dụng đạt hiệu quả cao ở tất cả các trường học, các lớp, các đối tượng học sinh khác nhau đồng thời thông qua hoạt động thuyết trình sơ đồ tư duy sẽ rèn cho các em học sinh kĩ năng thuyết trình trước đông người, phát triển kĩ năng giao tiếp của học sinh rất tốt. Sơ đồ tư duy có thể áp dụng sau một tiết học trong hoạt động củng cố nhằm giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp nhớ nhanh, nhớ sâu và chính xác nội dung đã học hoặc sử dụng trong các tiết luyện tập nhằm hệ thống hóa một lượng kiến thức lớn trong một chương một cách logic, khoa học. 2.3.2. Đồ dùng học tập trực quan Trong phương pháp dạy học tích cực môn hóa học thông qua đồ dùng học tập trực quan như hình vẽ, thí nghiệm, tranh ảnh, băng hình....và hệ thống câu hỏi của giáo viện học sinh chủ động nghiên cứu, tự phát hiện ra kiến thức lĩnh hội chúng.Phương pháp sử đụng đồ dùng học tập trực quan tạo được cho học sinh khả năng chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, hứng thú và hình thành thái độ nghiêm túc trung thực trong học tập có tính chất quyết định về kết quả học tập của học sinh. Ngoài những đồ dùng học tập trực quan do giáo viên chuẩn bị cho tiết dạy thì học sinh cũng có thể tự mình tạo ra những đồ dùng học tập đơn giản nhưng phản ánh được nội dung kiến thức cần đạt dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tùy thuộc vào nội dung bài học, mục đích giáo dục mà giáo viên có thể cho cho học sinh tự làm đồ dùng học tập ở nhà như vẽ các hình vẽ minh họa,làm các mô hình minh họa, sưu tầm các tranh ảnh, chuẩn bị các slide.... hoặc có thể làm ra các sản phẩm ngay trong tiết học như thí nghiệm trãi nghiệm, thí nghiệm kiểm chứng..... 2.4. CÁC HOẠT ĐỘNG CÓ THỂ DÙNG ĐỒ DÙNG HỌC TẬP 2.4.1. Hoạt động trải nghiệm kết nối Tiết dạy có gây sự chú ý của học sinh hay không nhờ vào người (giáo viên) rất nhiều. Trong đó phần mở đầu đặc biệt quan trọng, nếu ta có thể sử dụng một số mô hình, sản phẩm tự chuẩn bị của học sinh, yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu, giải thích qua bài học sẽ cuống hút được sự chú ý của học sinh trong tiết dạy. 2.4.2. Hoạt động hình thành kiến thức 9
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_tich_cuc_hoa_hoat_dong_cua_hoc_sinh_th.pdf