Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết bài tập cuối chương trong dạy học hình học phẳng Lớp 8

I. CÁC VẤN ĐỀ TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRƯỚC KHI THỰC HIỆN SÁNG KIẾN
Toán học là một môn khoa học có tính tư duy cao và trừu tượng, đòi hỏi tính hệ thống, logic. Để giải quyết một bài toán, một yêu cầu đề ra đòi hỏi người giải toán phải có một hệ thống kiến thức nhất định nào đó, cùng các kỹ năng và các phương pháp giải toán tương ứng, đặc biệt là khả năng tư duy phân tích, tổng hợp, suy luận Toán học. Trong dạy - học toán phổ thơng, ba kiểu bài đặt trưng là: Dạy – học lý thuyết; Dạy – học luyện tập; Dạy – học bài tập cuối chương đều có vai trò và chức năng riêng nhằm giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học vào giải toán và ứng dụng nó để giải quyết một số tình huống trong thực tế theo đúng định hướng của chương trình GDPT 2018. Trong đó tiết “Bài tập cuối chương” là quan trọng hơn cả. Dạy - học bài tập cuối chương toán nhằm hệ thống hóa các kiến thức và kỹ năng cơ bản của một chương, một giai đoạn gồm nhiều chủ đề, nội dung toán có liên quan với nhau. Qua đó hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh khả năng vận dụng kiến thức; kỹ năng đã học vào giải toán và ứng dụng vào thực tế. Qua tiết dạy - học “Bài tập cuối chương” giúp cho học sinh phát triển tốt năng lực phân tích, tổng hợp, tư duy linh hoạt và sáng tạo, thói quen làm việc khoa học nhằm nâng cao tư duy toán học nói riêng và hoàn thiện nhân cách của người lao động trong thời đại mới.
II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhìn chung, trong quá trình dạy học môn toán ở trường THCS thì việc dạy tốt một tiết bài tập cuối chương là một vấn đề quan trọng và cũng khá phức tạp. Bởi trong tiết ôn tập chương giáo viên phải tổ chức các hoạt động để học sinh hệ thống được kiến thức cơ bản xuyên suốt chương và đưa ra được các dạng bài tổng quát cho chương đó. Đặc biệt, giáo viên cùng học sinh phải xây dựng được quy trình giải cho các dạng bài tập này. Với một lượng lớn kiến thức trong chương dồn vào một hai tiết học thì việc ôn tập chương thực sự trở nên vô cùng nhàm chán, nặng nề với cả giáo viên và học sinh. Làm thế nào để giờ bài tập cuối chương hấp dẫn, đạt hiệu quả đã trở thành một câu hỏi lớn của nhiều giáo viên.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết bài tập cuối chương trong dạy học hình học phẳng lớp 8 ”.
docx 18 trang Thanh Ngân 10/06/2025 60
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết bài tập cuối chương trong dạy học hình học phẳng Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết bài tập cuối chương trong dạy học hình học phẳng Lớp 8

Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết bài tập cuối chương trong dạy học hình học phẳng Lớp 8
 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Phương pháp điều tra, phương pháp trò chuyện, phương pháp tổng kết kinh 
nghiệm, phương pháp thống kê, phương pháp xử lí thông tin.
 PHẦN HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THIẾT KẾ VÀ 
SỬ DỤNG CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHO TIẾT BÀI TẬP CUỐI 
CHƯƠNG TRONG DẠY HÌNH HỌC PHẲNG LỚP 8
1.1 Cơ sở lý luận của việc thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết 
bài tập cuối chương trong dạy học hình học phẳng lớp 8
 1.1.1. Thế nào là hoạt động dạy học?
 Hoạt động dạy học là hoạt động tương tác. Xem xét hoạt động của thầy đều 
có liên quan đến hoạt động của trò và ngược lại. Nhìn từ góc độ tính chủ thể của 
hoạt động sư phạm, để hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh 
được tiến hành thì không thể thiếu vai trò của chủ thể. Trong hoạt động dạy học, 
chủ thể hoạt động là người dạy (giáo viên) và người học (học sinh). Người học là 
chủ thể của hoạt động học, người dạy là chủ thể của hoạt động dạy. Thầy và trò là 
những chủ thể cùng nhau hoạt động, duy trì, tiếp nối hoạt động. Đối tượng của hoạt 
động học tập là lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Mục tiêu của hoạt động dạy 
học là hình thành và phát triển nhân cách, năng lực của người học. Chính vì hoạt 
động dạy và học có chung mục tiêu cho nên hoạt động dạy và học luôn tương tác 
trong mối quan hệ “cung - cầu”, “nhân - quả”... Không thể nói đơn giản thầy hay 
trò đóng vai trò “chủ động” hay “thụ động”. Đã là hoạt động thì tính chủ động là 
thuộc tính của cả hai bên. Thầy tích cực, chủ động trong hoạt động dạy và trò tích 
cực, chủ động tham gia hoạt động học. Hoạt động dạy học của giáo viên mang ý 
nghĩa là phương tiện, là công cụ hỗ trợ thúc đẩy hoạt động học của học sinh đúng 
hướng và hiệu quả. “Năng lực người giáo viên là khả năng thực hiện các hoạt động 
dạy học với chất lượng cao” (Trần Bá Hoành).
 1.1.2. Dạy học ôn tập là gì?
 Ôn tập là phương pháp dạy học giúp học sinh mở rộng, đào sâu, khái quát 
hóa, hệ thống hóa tri thức đã học, nắm vững những kỹ năng, kỹ xảo đã được hình 
thành, phát triển trí nhớ, tư duy của họ. Đồng thời qua đó có thể điều chỉnh, sửa 
chữa những sai lầm trong hệ thống tri thức của họ.
 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của tiết bài tập cuối chương.
 Bài tập cuối chương là tiết cuối cùng của mỗi chương học. Sau khi học sinh 
được học hết các tiết lý thuyết và luyện tập của cùng một chủ đề, các em sẽ được 
tham gia vào tiết bài tập cuối chương. Tùy theo kế hoạch dạy học của từng trường 
mà tiết ôn tập chương này có thể kéo dài từ 1 đến 3 tiết. Tiết bài tập cuối chương là 
 2 bài cho học sinh Không khởi động mà kiểm tra bài cũ 2 25%
hay không? luôn.
Theo cô, có sự Không 3 37,5%
khác biệt giữa tiết Cơ bản là giống nhau nhưng tiết ôn tập 5 62,5%
bài tập cuối chương chương thì phải ôn tập nhiều nội dung 
và tiết luyện tập hơn tiết luyện tập.
không? Khác nhau. Tiết ôn tập chương là tiết 0 0%
 học mà giáo viên cần tổ chức các hoạt 
 động sao cho học sinh thấy được mạch 
 kiến thức xuyên suốt của cả chương, 
 hiểu được tri thức và tri thức phương 
 pháp.
 Nhận xét: Kết quả điều tra cho thấy: Một số giáo viên khi xây dựng các tiết 
bài tập cuối chương đều theo chung một chuỗi hoạt động gồm: Kiểm tra bài cũ, 
tổng hợp lý thuyết, luyện tập giải bài tập, giao việc về nhà. Các hình thức dạy học 
của giáo viên trong tiết bài tập cuối chương không đa dạng, chưa thu hút được người 
học. Nhiều giáo viên chưa coi trọng việc ứng dụng công nghệ trong quá trình dạy 
học. Nhiều giáo viên còn nhầm lẫn giữa tiết bài tập cuối chương với tiết luyện tập, 
tức là tập trung vào việc tổng kết lý thuyết và rèn luyện bài tập. Nhiều giờ dạy, giáo 
viên chỉ liệt kê các kiến thức đơn lẻ mà sách giáo khoa đưa ra chưa xâu chuỗi kiến 
thức trong toàn chương học.
 1.2.2. Thực trạng về cách học tập trong tiết bài tập cuối chương của học 
sinh hiện nay.
 Để hiểu rõ hơn về cách học tập trong tiết bài tập cuối chương của học sinh 
hiện nay, trước khi áp dụng đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp phát phiếu điều tra 
trên 143 học sinh lớp 8 của trường mà tôi đang giảng dạy. Sau khi khảo sát (theo 
mâu phiếu điều tra số 1 ở phụ lục 1) thu được kết quả như sau:
 Câu hỏi Phương án trả lời Số lượng %
Em có phải chuẩn bị gì Không 0 0%
trước khi vào giờ bài tập Trả lời câu hỏi về lý thuyết trong83 58%
cuối chương không? sách giáo khoa
 Làm bảng tổng hợp lý thuyết của60 42%
 chương
 Hào hứng 24 16,8%
 4 2 tiết
 Như vậy, ta có thể phân chia như sau:
 Phương án 1:
 + Tiết bài tập cuối chương thứ 1, giáo viên cùng học sinh ôn tập nội dung 
Định lí Pythagore; tứ giác và hình thang, hình thang cân.
 + Tiết bài tập cuối chương thứ 2, giáo viên cùng học sinh ôn tập nội dung 
Hình bình hành và các dạng hình đặc biệt của nó.
 Phương án 2:
 + Tiết bài tập cuối chương thứ 1, giáo viên tổ chức cho học sinh ôn tập toàn 
bộ phần lý thuyết và luyện tập các bài tập dạng trắc nghiệm.
 + Tiết bài tập cuối chương thứ 2, giáo viên tổ chức cho học sinh ôn tập các 
dạng bài tập điển hình của chương.
 * Chương VIII - Tam giác đồng dạng hình học lớp 8, có 10 bài học, được 
chia thành 3 nội dung chính là: Một là định lý Ta -let (thuận, đảo, hệ quả) và tính 
chất đường phân giác trong tam giác. Hai là tam giác đồng dạng và các trường hợp 
đồng dạng của hai tam giác. Ba là hình đồng dạng và hình đồng dạng trong thực 
tiễn.
 - Số tiết ôn tập chương VIII theo kế hoạch dạy học của trường là 3 tiết. Như 
vậy, ta có thể chia nội dung như sau:
 Phương án 1:
 + Tiết 1, ôn tập nội dung định lý Ta - let ( thuận, đảo, hệ quả) và tính chất 
đường phân giác trong tam giác.
 + Tiết 2, ôn tập nội dung tam giác đồng dạng và các trường hợp đồng dạng 
của hai tam giác, các dạng bài tập điển hình.
 + Tiết 3, tổng hợp toàn bộ kiến thức, hình đồng dạng và hình đồng dạng trong 
thực tiễn.
 Phương án 2:
 + Tiết 1, ôn tập lý thuyết và hệ thống bài tập trắc nghiệm.
 + Tiết 2, ôn tập các dạng bài tập điển hình của chương.
 + Tiết 3, tổng ôn tập các dạng bài tập điển hình.
 * Điều kiện áp dụng: Giải pháp này có thể áp dụng cho toàn bộ các lớp 
giảng dạy.
 => Tóm lại, với giải pháp này sẽ gợi ý cho GV giảng dạy cách thức để phân 
chia các nội dung vào từng tiết bài tập cuối chương sao cho phù hợp nhất, đảm bảo 
kiến thức và thời gian của từng tiết dạy.
 6 * Mục đích: Tạo hứng khởi cho học sinh khi bắt đầu vào giờ học, hơn nữa 
còn có thể tổng kết được kiến thức cần nhớ bằng một hình tượng cây kiến thức để 
treo tại lớp sau giờ học.
 * Biện pháp thực hiện: Giáo viên cần chuẩn bị sẵn hai mô hình cây, với các 
tán được vẽ trên giấy A0. Mỗi cành lớn là một chủ đề trong chương. Từ mỗi nhánh 
có nhiều tán, trên các tán có ghi tên của kiến thức trong chủ đề. Giáo viên chuẩn bị 
thêm các tán cây có ghi nội dung kiến thức của từng chủ đề. Tổ chức trò chơi như 
sau: Lấy hai đội chơi, mỗi đội từ 3 đến 5 bạn. Trong thời gian 1 phút đến 2 phút, 
các thành viên trong đội sẽ lần lượt gắn các tán có nội dung tương ứng với các tán 
trên cây. Đội nào có số miếng dán đúng nhiều hơn, đội đó giành chiến thắng. Sau 
trò chơi này, giáo viên có thể dùng cây kiến thức này để tổng kết các kiến thức đã 
học trong chương theo từng chủ đề lớn.
 * Ví dụ minh họa: Trong tiết bài tập cuối chương VIII - Tam giác đồng 
dạng ( tiết học số 2 ôn tập về chủ đề Tam giác đồng dạng), giáo viên có thể chuẩn 
bị hai cây kiến thức được vẽ trên giấy A0. Mỗi cây có 3 nhánh ( Nhánh 1 gồm 2 tán 
là khái niệm và tính chất của tam giác đồng dạng; Nhánh 2 gồm 3 tán là ba trường 
hợp đồng dạng của 2 tam giác; Nhánh 3 gồm 3 tán là 3 trường hợp đồng dạng của 
2 tam giác vuông). Giáo viên chuẩn bị 8 tán cây có viết 8 nội dung như trên.
 Tổ chức: Trong đầu tiết học ôn tập, giáo viên thành lập hai đội chơi, mỗi đội 
gồm 5 học sinh. Trong thời gian 30 giây, đội nào gắn được đúng nhiều số miếng 
ghép nhất lên cây, đội đó chiến thắng.
 Giáo viên nhận xét về tình thần tham gia của hai đội chơi, công bố đội thắng 
cuộc. Đồng thời, tổng kết: Nội dung tam giác đồng dạng được chia thành 3 mảng 
kiến thức lớn cần ghi nhớ. Một là định lý Ta -let (thuận, đảo, hệ quả) và tính chất 
đường phân giác trong tam giác. Hai là tam giác đồng dạng và các trường hợp đồng 
dạng của hai tam giác. Ba là hình đồng dạng và hình đồng dạng trong thực tiễn ( 
tham khảo phụ lục 2)
 8 Bạn An dự định lắp đèn Led để trang trí cầu thang nhà mình theo dạng hình bình 
hành ABCD như hình vẽ, An đo được AB = 5 cm, AD = 1,2cm, độ dài dây đèn 
Led bạn An cần dùng là :
A. 6,2m B. 12,4m C. 6m D. 10m
 Câu 2. Hình chữ nhật không có tính chất nào sau đây?
A. Trong hình chữ nhật có hai đường chéo bằng nhau.
B. Trong hình chữ nhật có hai cạnh kề bằng nhau.
C. Trong hình chữ nhật có bốn góc vuông.
D. Trong hình chữ nhật có hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi 
đường.
 Câu 3. Khẳng định nào sau đây Sai?
A. Hình bình hành có hai đường chéo bằng nhau là hình chữ nhật.
B. Hình bình hành có hai đường chéo vuông góc là hình chữ nhật.
C. Hình thang cân có một góc vuông là hình chữ nhật.
D. Hình bình hành có một góc vuông là hình chữ nhật.
 Câu 4. Cho hình bình hành ABCD biết AB = 3cm, AD = 5cm, BAD = 600. 
Độ dài cạnh BC và số đo BCD là:
A. BC = 3cm và BCD = 600 B. BC = 3cm và BCD = 1200.
C. BC = 5cm và BCD = 600 D. BC = 5cm và BCD = 1200.
 10 b. Tứ giác ABED có AB // ED, AB = ED nên là hình bình hành.
 Hình bình hành ABED có A = 900 nên là hình chữ nhật.
 Hình chữ nhật ABED có AB = AD nên là hình vuông.
 c. ABCE là hình bình hành nên M là trung điểm của AC.
 Tam giác ADC vuông tại D có DM là đường trung tuyến nên DM = MC, 
 suy ra MCD = MDC . Lại có ADH = MCD (cùng phụ với CAD ) nên ADH = MDC 
 . Suy ra IDB = BDK .
 Gọi O là giao điểm hai đường chéo của hình vuông ABED, ta có
 BD ± AE, OB = OD . Tam giác DIK có đường cao DO là đường phân giác nên 
 OI = OK.
 Tứ giác BIDK có OB = OD, OI = OK nên hình bình hành, lại có BD ± IK 
 nên là hình thoi.
 Bài 2. Cho A ABC. Gọi D, E, F theo thứ tự là trung điểm của BC, AC, AB.
 a. Tứ giác AEDF là hình gì? Vì sao?
 b. Tìm điều kiện của tam giác ABC để AEDF là hình thoi.
 Tìm cách giải: Dễ dàng chứng minh được AEDF là hình bình hành.
 Giáo viên dẫn dắt đưa tình huống: Có học sinh nêu điều kiện để AEDF là 
 hình thoi là tam giác ABC đều và chứng minh như sau: nếu tam giác ABC đều 
 thì AB = AC nên AE = AF. Hình bình hành AEDF có AE = AF nên là hình 
 thoi.
 Giáo viên gợi ý để học sinh nhận ra thiếu sót của lời giải trên là điều kiện 
 nêu trên quá rộng. không đòi hỏi tam giác ABC đều, chỉ cần tam giác ABC 
 cân tại A thì mọi lập luận trên đều đúng. Như vậy tuy tam giác ABC đều là đủ 
 để AEDF là hình thoi, nhưng không cần đến mức đó. Chỉ cần tam giác ABC 
 cân tại A cũng đủ để AEDF là hình thoi. Phần này, giáo viên cho học sinh 
 quan sát hình di động trên phần mềm sketchpad để học sinh thấy rõ hơn.
 Giáo viên cùng học sinh chốt: Để tìm điều kiện đủ cho AEDF là hình thoi, 
 cần thực hiện hai bước:
 - Bước 1. Nếu AEDF là hình thoi thì AE = AF, suy ra AB = AC, do đó tam 
 giác ABC cân tại A.
 - Bước 2. Nếu tam giác ABC cân tại A thì AB = AC, suy ra AE = AF, do đó 
 hình bình hành AEDF là hình thoi.
 Giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày bài giải.
Hướng dân bài giải:
 12 - Những bài toán vui, những bài toán thực tiễn liên quan đến nội dung chương 
I Tứ giác:
 Bài toán 1. Lát sàn nhà
 Vì sao có thể dùng những miếng gỗ hình tứ giác bằng nhau ( có các góc 
tương ứng bằng nhau và các cạnh tương ứng bằng nhau) ghép lại thành một mảng 
rộng?
Giải: Gọi a, b, c, d là số đo bốn góc của 
mỗi miếng gỗ hình tứ giác. Ta có: a + b 
+ c + d = 3600 Ta ghép bốn miếng gỗ lại 
sao cho tại mỗi đỉnh có bốn góc a, b, c, d 
của các miếng gỗ như hình bên. Cứ như 
vậy, ta có thế ghép các miếng gỗ lại thành 
một mảng rộng tùy ý.
 Bài toán 2. Trò chơi và tính đối 
xứng
 Hai bạn Việt và Nam ngồi cạnh chiếc bàn hình chữ nhật và chơi một trò chơi. 
Người chơi lần lượt đặt xuống mặt bàn một quân bài hình chữ nhật và không được 
đặt chồng lên các quân bài đã đặt trước. Người nào không tìm được vị trí đặt quân 
bài là người thua cuộc. Việt được đi trước. Em hãy chỉ cách để Việt dành được 
chiến thắng?
Giải:
Việt đặt quân bài sao cho tâm đối xứng của quân bài trùng với tâm đối xứng của 
mặt bàn. Khi Nam đặt một quân bài mới thì Việt sẽ đặt quân bài của mình vào vị 
trí đối xứng với quân bài mà Nam vừa đặt. Cuối cùng sẽ đến lúc Nam không còn 
chỗ để đặt quân bài và Việt là người thắng cuộc.
 + Bài toán số 2 còn được biến đổi thành chiếc bàn hình tròn ( hoặc vẽ hình 
 tròn trên bảng) rồi dùng những hình tròn bằng nhau để xếp kín.
 + Với hai bai bài toán này, giáo viên có thể giao trước giờ học để học sinh 
 làm nhóm và báo cáo vào giờ học chính. Hoặc giáo viên tổ chức cho học sinh 
 làm tại lớp 1 bài, một bài giao về nhà.
- Bài toán thực tiễn ôn tập chương II Đa giác. Diện tích đa giác
 14

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_thiet_ke_va_su_dung_cac_hoat_dong_day.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Thiết kế và sử dụng các hoạt động dạy học cho tiết bài tập cuối chương trong d.pdf