Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế Rucbric đánh giá năng lực trong dạy học đọc, viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT - Bộ kết nối tri thức và cuộc sống

Chương trình Ngữ văn 2018 được xây dựng theo trục Đọc Viết-nói Và Nghe nhưng Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học then chốt của môn Ngữ văn.

Thứ nhất, giáo viên cần xác định rõ vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ cấu trúc chương trình:

- Đọc hiểu văn bản là nội dung dạy học quan trọng bậc nhất, khi chương trình đã xác định rõ hai trục chính của dạy học Ngữ văn là đọc vănlàm văn.

- Thời gian dành cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn thời gian dạy học toàn môn học.

- Phần cung cấp dữ liệu phục vụ trực tiếp cho dạy học đọc hiểu văn bản chiếm phần lớn số trang của sách giáo khoa Ngữ văn cả trong chương trình hiện hành và SGK chương trình giáo dục phổ thông 2018 .

Thứ hai, giáo viên dạy Ngữ văn cũng cần xác định thêm vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ mục tiêu của môn Ngữ văn. Dạy học đọc hiểu văn bản đảm bảo phần lớn mục tiêu bồi dưỡng “tri thức ngữ văn” cho học sinh (tri thức ngữ văn là một thuật ngữ mang tính quy ước, dùng để chỉ các loại tri thức mà môn Ngữ văn có nhiệm vụ đưa đến/bồi dưỡng/ củng cố cho học sinh hoặc giúp học sinh tự kiến tạo cho mình trong quá trình học).

Thứ ba, vị trí của dạy học đọc hiểu văn bản nhìn từ hoạt động kiểm tra, đánh giá.

- Nội dung kiến thức của dạy học đọc hiểu cũng là nội dung chính của kiểm tra, đánh giá (không chỉ đối với học sinh mà còn đối với cả giáo viên).

- Phương pháp dạy học đọc hiểu là thước đo chính để đánh giá việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên Ngữ văn.

- Năng lực dạy học đọc hiểu là tham số quan trọng nhất để đánh giá năng lực dạy học của giáo viên Ngữ văn (trong những kỳ thi giáo viên giỏi, giáo viên gần như bắt buộc phải dạy một “bài” đọc hiểu văn bản, ngoài những “bài” khác, hoặc làm văn, hoặc tiếng Việt).

Trong chương trình SGK Ngữ văn 2018 đã rất chú ý vấn đề dạy đọc. Đọc là một trong bốn kĩ năng chính cần xác lập cho người học trong chương trình giáo dục phổ thông mới.

Như vậy mục tiêu cốt lõi của hoạt động đọc là giúp học sinh nắm được cách đọc, rèn được cách đọc, từ đó có năng lực đọc, chiếm lĩnh cách đọc, có được những tri thức cần thiết về cách đọc để khi học sinh tiếp nhận với bất kì văn bản nào cùng loại thì vẫn đọc hiểu được. Nhằm giúp học sinh ở cấp THPT được trang bị thật kĩ lưỡng những kĩ năng quan trọng, cần thiết, các em cần được giáo dục để trở thành những thanh niên mạnh dạn, tự tin, chủ động và sáng tạo trong giao tiếp và công việc, có khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập trong nhiều tình huống. Chúng ta còn nhớ cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng phát biểu quan điểm chỉ đạo việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường phổ thông: "Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của mình...". Như vậy dạy học văn là một quá trình rèn luyện toàn diện cho nên giáo viên phải không ngừng trăn trở đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn nói chung, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nói riêng. Việc hình thành và củng cố kiến thức thể loại vào dạy học đọc hiểu văn bản cũng đồng thời đáp ứng được yêu cầu trên. Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, việc hình thành kiến thức ngôn ngữ và văn học cho học sinh (HS) phải được tích hợp với các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Từ định hướng đó, sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn sẽ được thiết kế theo mô hình tổ chức hoạt động thay cho mô hình cung cấp kiến thức. Làm thế nào để qua các hoạt động, HS có thể có được một nền tảng kiến thức vững vàng, đó là một vấn đề hiện nay cần được đặc biệt chú ý nghiên cứu.

Muốn thực hành đọc tốt văn bản (VB), người đọc phải có được những kiến thức cơ bản về loại, thể loại. Nhưng hiện nay, trong khi Chương trình và SGK không bố trí những tiết học riêng (mang tính lí thuyết) về loại, thể loại VB, giáo viên (GV) cần phải làm gì để cuộc tiếp xúc của HS với VB được diễn ra thuận lợi? Rõ ràng đây là một câu hỏi khó cần được tìm hiểu, giải đáp.

Kiến thức về thể loại VB vốn rất phong phú, nhưng trong nhà trường phổ thông, phạm vi kiến thức đó cần được xác định theo nguyên tắc nào và và việc xây dựng quy trình tiếp nhận kiến thức đó phải đảm bảo điều kiện gì? Với một GV Ngữ văn, điều này gây không ít băn khoăn.

Xuất phát từ những câu hỏi khoa học nêu trên đồng thời đáp ứng yêu cầu của dạy học hiện đại và góp một chút nhỏ tăng thêm tình yêu đối với môn Ngữ văn là động lực giúp tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Thiết kế Rucbric đánh giá năng lực trong dạy học đọc -viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT- Bộ kết nối tri thức và cuộc sống”. Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin định hướng một số biện pháp thiết kế Rubric nhằm đánh giá năng lực trong hoạt động dạy học Đọc- Viết ở Ngữ văn 10 chương trình GDPT 2018.

doc 69 trang Thanh Ngân 02/12/2024 320
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế Rucbric đánh giá năng lực trong dạy học đọc, viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT - Bộ kết nối tri thức và cuộc sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế Rucbric đánh giá năng lực trong dạy học đọc, viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT - Bộ kết nối tri thức và cuộc sống

Sáng kiến kinh nghiệm Thiết kế Rucbric đánh giá năng lực trong dạy học đọc, viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT - Bộ kết nối tri thức và cuộc sống
 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. PPDH: phương pháp dạy học
2. HPH: Hội phụ huynh
3. THPT: Trung học phổ thông
4. ĐGNL: Đánh giá năng lực
5. GDPT: Giáo dục phổ thông
6. CT: Chương trình
7. NL: Năng lực
8. VB: Văn bản
9. KTĐG: Kiểm tra đánh giá III.5. Phương pháp thực nghiệm 50
III.6. Giáo án thực nghiệm- Kế hoạch bài dạy thực nghiệm
PHẦN C – KẾT LUẬN 53
 I. Đóng góp của đề tài 53
II. Một số đề xuất 55
Tài liệu tham khảo
Phụ lục tài sáng kiến kinh nghiệm sẽ là nguồn tư liệu hữu ích cho dạy học Ngữ văn theo 
hướng phát triển phẩm chất năng lực học sinh ở các trường THPT. Hơn nữa, với 
mong muốn đổi mới hoạt động dạy học, đổi mới tư duy sáng tạo, linh hoạt cho GV 
trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá học sinh góp phần thực hiện thắng lợi 
sự nghiệp giáo dục của nhà trường trong giai đoạn mới, chúng tôi mạnh dạn thực 
hiện đề tài: “Thiết kế Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức dạy học hoạt động 
Đọc- Viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT – bộ Kết nối tri thức với cuộc sống”. 
Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn đang có nhiều thiếu sót, kính mong 
được sự góp ý của Ban giám khảo và đồng nghiệp để đề tài của chúng tôi được 
hoàn thiện hơn!
 Theo tinh thần của chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo trục Đọc- 
Viết- Nói và Nghe nhằm hình thành cho các em năng lực ngôn ngữ ở tất cả các 
hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và xử lí 
thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp HS sử dụng tiếng Việt 
chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác nhau trong 
nhiều ngữ cảnh đa dạng. 
 Số tiết dạy đọc hiểu văn bản ở cả chương trình hiện hành và chương trình 
GDPT 2018 thực hiện ở năm học tới chiếm tỉ lệ lớn vì thế khi dạy đọc- hiểu văn 
bản cho học sinh ở trường THPT giáo viên phải vận dụng một cách tổng hợp các 
tri thức và kĩ năng không chỉ của Ngữ Văn mà còn huy động các kiến thức và kĩ 
năng của các môn học khác nhằm đáp ứng yêu cầu về sự tăng lên của khối lượng 
tri thức ngày càng cao của cuộc sống hiện đại.
 Trọng tâm vẫn là thông qua những văn bản văn học đặc sắc, giúp HS phát 
triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt, giúp 
HS biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có 
hứng thú viết, thảo luận về các văn bản cùng thể loại nhờ đó các em có cơ hội 
khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời 
sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn.
 Giúp HS phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện, 
biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận; 
giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, 
năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng.
 Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp 
tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học 
được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc 
nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể 
tự đọc sách để không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc 
sống và công việc.
 Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng 
Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn 
 2 Trong chương trình SGK Ngữ văn 2018 đã rất chú ý vấn đề dạy đọc. Đọc là 
một trong bốn kĩ năng chính cần xác lập cho người học trong chương trình giáo 
dục phổ thông mới.
 Như vậy mục tiêu cốt lõi của hoạt động đọc là giúp học sinh nắm được cách 
đọc, rèn được cách đọc, từ đó có năng lực đọc, chiếm lĩnh cách đọc, có được 
những tri thức cần thiết về cách đọc để khi học sinh tiếp nhận với bất kì văn bản 
nào cùng loại thì vẫn đọc hiểu được. Nhằm giúp học sinh ở cấp THPT được trang 
bị thật kĩ lưỡng những kĩ năng quan trọng, cần thiết, các em cần được giáo dục để 
trở thành những thanh niên mạnh dạn, tự tin, chủ động và sáng tạo trong giao tiếp 
và công việc, có khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập trong nhiều tình 
huống. Chúng ta còn nhớ cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng phát biểu quan điểm 
chỉ đạo việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường phổ thông: "Ngày nay, sự hiểu 
biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học được trong nhà trường bao 
nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan 
trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, 
phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của 
mình...". Như vậy dạy học văn là một quá trình rèn luyện toàn diện cho nên giáo 
viên phải không ngừng trăn trở đổi mới về phương pháp dạy học bộ môn nói 
chung, phương pháp dạy đọc hiểu văn bản nói riêng. Việc hình thành và củng cố 
kiến thức thể loại vào dạy học đọc hiểu văn bản cũng đồng thời đáp ứng được yêu 
cầu trên. Theo định hướng của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 
2018, việc hình thành kiến thức ngôn ngữ và văn học cho học sinh (HS) phải được 
tích hợp với các hoạt động đọc, viết, nói và nghe. Từ định hướng đó, sách giáo 
khoa (SGK) Ngữ văn sẽ được thiết kế theo mô hình tổ chức hoạt động thay cho mô 
hình cung cấp kiến thức. Làm thế nào để qua các hoạt động, HS có thể có được 
một nền tảng kiến thức vững vàng, đó là một vấn đề hiện nay cần được đặc biệt 
chú ý nghiên cứu.
 Muốn thực hành đọc tốt văn bản (VB), người đọc phải có được những kiến 
thức cơ bản về loại, thể loại. Nhưng hiện nay, trong khi Chương trình và SGK 
không bố trí những tiết học riêng (mang tính lí thuyết) về loại, thể loại VB, giáo 
viên (GV) cần phải làm gì để cuộc tiếp xúc của HS với VB được diễn ra thuận lợi? 
Rõ ràng đây là một câu hỏi khó cần được tìm hiểu, giải đáp.
 Kiến thức về thể loại VB vốn rất phong phú, nhưng trong nhà trường phổ 
thông, phạm vi kiến thức đó cần được xác định theo nguyên tắc nào và và việc xây 
dựng quy trình tiếp nhận kiến thức đó phải đảm bảo điều kiện gì? Với một GV 
Ngữ văn, điều này gây không ít băn khoăn.
 Xuất phát từ những câu hỏi khoa học nêu trên đồng thời đáp ứng yêu cầu của 
dạy học hiện đại và góp một chút nhỏ tăng thêm tình yêu đối với môn Ngữ văn là 
động lực giúp tôi lựa chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Thiết kế Rucbric đánh 
giá năng lực trong dạy học đọc -viết ở chương trình Ngữ văn 10 THPT- Bộ kết 
nối tri thức và cuộc sống”. Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm này, tôi 
 4 giá chính mình cũng như đánh giá bạn của các em học sinh. Vì vậy, những giải 
pháp mà chúng tôi đưa ra là hoàn toàn mới mà các đề tài trước chưa đề cập đến.
 7. Ý nghĩa của đề tài
 Đề tài SKKN đã chỉ ra được cách thức xây dựng và vận dụng rubric; đề xuất 
chuẩn ĐG, rubric ĐG NL Đọc- Viết của HS nhằm tham khảo và vận dụng vào thực 
tế dạy học Ngữ văn 10 THPT nói riêng và dạy học phổ thông nói chung. Sáng kiến 
kinh nghiệm có thể dùng làm tài liệu tham khảo và tập huấn cho GV trung học phổ 
thông về KTĐG trong dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển NL. Sáng kiến kinh 
nghiệm này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên ở các trường 
THPT.
 Chúng tôi hy vọng đề tài sẽ là những định hướng có giá trị, là những tư liệu 
đáng tin cậy giúp các cơ sở giáo dục có thể thực hiện tốt hơn mục tiêu giáo dục 
của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
 6 không đòi hỏi sự mô tả chi tiết về các tiêu chí (chỉ số) thực hiện của từng công 
đoạn hay kết quả trung gian. Rubric định tính giúp GV chấm bài nhanh, phù hợp 
với các kì ĐG tổng kết. Tuy nhiên, ĐG kiểu này không cung cấp nhiều thông tin 
phản hồi cho GV và HS.
 Rubric định lượng (Phân tích) được sử dụng để ĐG cho điểm từng công 
đoạn hoặc kết quả trung gian trong quá trình người học thực hiện nhiệm vụ. Các 
điểm ĐG thành phần sẽ được cộng lại thành điểm tổng kết cuối cùng. Rubric phân 
tích đòi hỏi phải có sự mô tả chi tiết (đặc tả) các chỉ số tương ứng với tiêu chí, 
mức/cấp độ và điểm số. Do đó quá trình chấm bài loại này lâu hơn vì phải phân 
tích ĐG từng kĩ năng, từng đặc trưng khác nhau trong bài làm của HS. Tuy nhiên, 
rubric định lượng này cho phép thu thập nhiều thông tin phản hồi hơn, chi tiết hơn 
ở từng tiêu chí. Và nếu lưu trữ và xử lí những thông tin này GV sẽ có một bộ hồ sơ 
về điểm mạnh, điểm yếu của từng HS và quá trình tiến bộ của họ Sử dụng một 
rubric định tính khi GV muốn có một ĐG nhanh, tổng thể, bao quát chung về thành 
tích của HS. Sử dụng một bảng rubric phân tích khi GV muốn nhìn thấy từng điểm 
mạnh và điểm yếu thuộc từng phần bài làm của HS; phản hồi thông tin chi tiết về 
bài làm, sản phẩm cho HS; ĐG kĩ năng phức tạp của HS; muốn HS tự ĐG sự hiểu 
biết hoặc việc làm của các em.
I.1.3. Những nghiên cứu về ưu thế của Rubric trong tổ chức hoạt động Đọc -
Viết nhằm phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh
 Qua những nghiên cứu về uu thế của rubric trong đánh giá theo hướng phát 
triển năng lực. Nếu đặt trong tương quan so sánh với các công cụ ĐG khác thì 
rubric không hẳn là công cụ có ưu thế tuyệt đối trong ĐG NL. Tuy nhiên, rubric 
được thừa nhận rộng rãi là công cụ ĐG phù hợp với mô hình dạy học lấy người 
học làm trung tâm. Với nhiều ưu điểm nổi bật, rubric thực sự là công cụ ĐG NL 
hiệu quả.
 Rubric giúp xác lập mục tiêu ĐG NL một cách cụ thể, chi tiết: Các mục tiêu 
ĐG được cụ thể hóa thành các tiêu chí, các tiêu chí lại được mô tả và phân chia 
trọng số, mức điểm ĐG hết sức chi tiết giúp GV dễ dàng đo lường, ĐG được các 
phương diện của NL học sinh.
 Rubric đảm bảo tính khoa học, tường minh, khách quan, công bằng trong 
ĐG NL: việc phân chia tỉ mỉ trọng số và mức điểm ĐG tương ứng với các mô tả 
chi tiết về các tiêu chí nhằm đảm bảo có thể lượng hóa được mức độ NL, theo đó 
công việc ĐG sẽ ngày càng tiệm tiến độ chính xác, giảm tính chủ quan và rút ngắn 
được thời gian ĐG. Rubric còn có thể được công khai trên mọi kênh và mọi đối 
tượng tham gia ĐG, từ GV, HS đến phụ huynh Những đặc điểm này giúp cho 
các đối tượng được ĐG dễ dàng theo dõi các thông tin cần ĐG, tự nhận diện được 
mức độ NL của bản thân, rút ra những điểm tiến bộ và hạn chế của chính mình để 
có hướng khắc phục kịp thời. Rubric là một minh chứng ngắn gọn nhưng rất rõ 
 8 I.2.2. Khảo sát về tính cấp thiết và tính khả thi của đề tài
I.2.2.1.Mục đích khảo sát
 Để tìm hiểu về thực trạng nhận thức và tính cấp thiết cũng như khả thi của 
việc vận dụng Rubric trong tổ chức hoạt động Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 
10 ( Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống), chúng tôi đã tiến hành khảo sát giáo viên 
Ngữ Văn ở các trường THPT trên địa bàn huyện Yên Thành.
I.2.1.2 Nội dung khảo sát
 - Thiết kế và vận dụng Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động 
Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 10 có thực sự cấp thiết đối với việc tổ chức dạy 
học văn bản không?
 - Thiết kế và vận dụng Rubric đánh giá năng lực trong tổ chức hoạt động 
Đọc -Viết ở chương trình Ngữ văn 10 có thực sự khả thi đối với việc tổ chức dạy 
học văn bản không ?
 https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSf53O3YLvxy8cv156cVQo-
MeZtfLCQ3RgUnAac_AXmeoADmZw/viewform
I.2.1.3 Phương pháp khảo sát
 Phương pháp được sử dụng để khảo sát là trao đổi bằng bảng hỏi; với thang 
đánh giá 04 mức (tương ứng điểm từ 1-4)
 Điểm trung bình tính bằng phần mềm execl
Đối tượng khảo sát
 STT Đối tượng Số Lượng
 1 GV Ngữ Văn trường THPT Yên Thành 3 8
 2 GV Ngữ Văn trường THPT Yên Thành 2 7
 3 GV Ngữ Văn trường THPT Phan Đăng Lưu 6
 Tổng 21
 1 Học sinh khối 10 THPT Yên Thành 3 151
 Kết quả khảo sát
 Đối với giáo viên: sau khảo sát chúng tôi thu được các số liệu như sau:
 Đánh giá sự cấp thiết của giải pháp
 STT Các giải pháp Các thông số
 X Mức
 10 được phẩm chất, năng lực HS. Việc kiểm tra, đánh giá chưa đa dạng. Như vậy, vận 
còn hiện tượng nhiều GV chưa thực sự đổi mới PPDH hoặc việc vận dụng phương 
pháp của bộ phận GV trong thực tiễn dạy học còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lí, 
nó cần được điều chỉnh, cải tiến để dạy học văn bản có hiệu quả hơn.
 Yêu cầu cần đạt của chương trình về kĩ năng đọc gồm kĩ thuật đọc và đọc 
hiểu. Kĩ thuật đọc gồm các yêu cầu về tư thế đọc, kĩ năng đọc thành tiếng, kĩ năng 
đọc thầm, đọc lướt, kĩ năng ghi chép trong khi đọc,... Các văn bản Đọc hiểu trong 
chương trình Ngữ văn THPT 2018 gồm văn bản văn học, văn bản nghị luận và văn 
bản thông tin. Đánh giá năng lực Đọc – hiểu mỗi kiểu văn bản và thể loại nói 
chung có các yêu cầu cần đạt sau: 
-Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua chi tiết, đề tài, chủ đề, tư tưởng, thông 
điệp,...
-Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể loại, các thành 
tố của mỗi kiểu văn bản và thể loại (câu chuyện, cốt truyện, truyện kể, nhân vật, 
không gian, thời gian, người kể chuyện, điểm nhìn, vần thơ, nhịp thơ, lí lẽ, bằng 
chứng,...), ngôn ngữ biểu đạt,
- Liên hệ, so sánh giữa các văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, 
xã hội, kết nối văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu văn bản đa 
phương thức,
-Đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc.
 Khi được hỏi điều GV chú trọng nhất khi dạy đọc hiểu là gì, có 60% GV cho 
rằng cung cấp kiến thức, kĩ năng, thái độ qua bài học, 39% GV được hỏi cho rằng 
đó là dạy cho HS biết cách đọc văn bản theo thể loại trong sách giáo khoa và chỉ 
4% hướng đến dạy HS cách tự đọc các văn bản cùng thể loại ngoài CT. Các số liệu 
này cho thấy, quan niệm của GV về giờ dạy đọc văn bản ở trường THPT chủ yếu 
vẫn nặng về cung cấp kiến thức, chỉ một số ít GV nhận thấy cần dạy HS đọc VB 
theo đặc trưng kiểu loại.
 Từ những quan điểm trên, chúng tôi nhận thấy, “Đọc” trong dạy học môn 
Ngữ Văn là hình thành cho HS kĩ năng đọc. Nói cách khác, “GV phải dạy cho HS 
cách đọc chứ không phải là cung cấp cách hiểu về VB cho HS. HS phải được học 
cách đọc để HS có hứng thú, thói quen và kĩ năng tự đọc sách và trở thành người 
đọc độc lập. 
I.2.2. Thực trạng về hoạt động viết và thực hành viết của học sinh THPT
 Viết là một trong những kỹ năng giao tiếp cơ bản nhất của con người, có vai 
trò rất quan trọng trong giao tiết mà trực tiếp là bày tỏ suy nghĩ ý kiến về một vấn 
đề hay một nhân vật cụ thể. Tuy nhiên, kỹ năng viết không có nguồn gốc từ bẩm 
 12

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_thiet_ke_rucbric_danh_gia_nang_luc_tro.doc