Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí

Nghị quyết Đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục” là: “nhằm xây dựng những con người và thế hệ trẻ gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo và kĩ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức kỉ luật, có sức khỏe, là người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội “vừa hồng vừa chuyên” như lời dạy của Bác Hồ”.

Luật Giáo dục năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng qui định rõ “Mục tiêu của giáo dục phổ thông” là: “ Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên cao hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia lao động bảo vệ Tổ quốc”.

Vật lí là cơ sở của nhiều ngành kĩ thuật quan trọng, sự phát triển của khoa học vật lí gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại trực tiếp tới sự tiến bộ của khoa học và kĩ thuật. Vì vậy hiểu vật lí có giá trị to lớn trong đời sống và sản xuất, đặc biệt trong công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Hòa chung với sự thay đổi của thời đại hội nhập là đòi hỏi con người cần năng động, nhạy bén hơn đặc biệt là chúng ta đang sống trong một xã hội đầy biến động với các thành tựu khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão. Bởi vậy đòi hỏi mục tiêu dạy học phải trang bị cho học sinh không chỉ kiến thức phong phú mà còn có kĩ năng thuần thục để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm đến việc học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất để nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Môn Vật lí không nằm ngoài quy luật trên. Mục tiêu của môn Vật lí cũng như các môn học khác là đào tạo ra những con người có năng lực hành động, năng lực làm việc, vận dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết những tình huống, vấn đề trong cuộc sống. Để đạt được mục tiêu đề ra, nội dung dạy học Vật lí THCS đã có sự thay đổi, hoàn thiện và toàn diện hơn so với chương trình cũ.

Bản thân tôi cũng đã tìm hiểu nhiều phương pháp dạy học mới để tạo hứng thú học tập, hình thành và phát triển năng lực cho học sinh trong giờ học Vật lí. Trong đó tôi đã thử áp dụng phương pháp kĩ thuật dạy học mới để hình thành và phát triển năng lực cho học sinh đó là: kĩ thuật sơ đồ KWL để giảng dạy. Chính vì lí do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí” để ghi lại ý tưởng mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy Vật lí ở trường THCS.

docx 16 trang Thanh Ngân 16/07/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL trong dạy học Vật lí
 PHỤ LỤC
Phần một: Mở đầu1
I. Lí do chọn đề tài 1
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu2
III. Đối tượng nghiên cứu2
IV. Phương pháp nghiên cứu2
V. Phạm vi nghiên cứu2
Phần hai: Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận3
II. Thực trạng kĩ năng phân tích mạch điện của học sinh 4
III. Giải pháp thực hiện5
IV. Kết quả nghiên cứu9
Phần ba: Kết luận và kiến nghị 11 2/11
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ 
quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm đến việc học sinh 
vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải 
thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ 
một chiều” sang dạy cách học, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm 
chất để nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Môn Vật lí 
không nằm ngoài quy luật trên. Mục tiêu của môn Vật lí cũng như các môn học 
khác là đào tạo ra những con người có năng lực hành động, năng lực làm việc, 
vận dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết những tình huống, vấn đề trong cuộc 
sống. Để đạt được mục tiêu đề ra, nội dung dạy học Vật lí THCS đã có sự thay 
đổi, hoàn thiện và toàn diện hơn so với chương trình cũ.
 Bản thân tôi cũng đã tìm hiểu nhiều phương pháp dạy học mới để tạo 
hứng thú học tập, hình thành và phát triển năng lực cho học sinh trong giờ học 
Vật lí. Trong đó tôi đã thử áp dụng phương pháp kĩ thuật dạy học mới để hình 
thành và phát triển năng lực cho học sinh đó là: kĩ thuật sơ đồ KWL để giảng 
dạy. Chính vì lí do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Sử dụng kĩ thuật sơ đồ 
KWL trong dạy học Vật lí” để ghi lại ý tưởng mà bản thân đã thực hiện trong 
quá trình giảng dạy Vật lí ở trường THCS.
II. Ý nghĩa và tác dụng của đề tài.
 - Đề tài chỉ ra được tính ứng dụng của phương pháp, kĩ thuật dạy học mới 
đối với việc giảng dạy Vật lí.
 - Việc sử dụng phương pháp kĩ thuật dạy học kiểu mới giúp học sinh dễ 
hiểu, dễ nhớ, dễ liên hệ kiến thức, tích cực, chủ động, đoàn kết và yêu thích môn 
học hơn.
 - Cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho giáo viên trong giảng dạy môn Vật 
lí.
 - Đáp ứng được một phần nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay 
trong các nhà trường.
III. Mục đích nghiên cứu 4/11
pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến 
thức vào thực tế”
 Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học nên giáo viên cần vận dụng 
các phương pháp soạn giảng cho phù hợp để đem lại niềm vui, hứng thú học tập 
cho học sinh, từ đó có thể hình thành và phát triển năng lực cho học sinh.
 Việc dạy học Vật lí nói chung cần đảm bảo các nguyên tắc giáo dục, đây là 
các luận điểm có tính chất chỉ đạo, những quy định, yêu cầu cơ bản mà người 
giáo viên cần phải tuân thủ để mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy 
học. Việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp với từng phần nội 
dung kiến thức đã căn cứ vào các nguyên tắc giáo dục (môn Vật lí).
 Qua thực tiễn giảng dạy tôi thấy rằng, việc sử dụng các phương pháp, kĩ 
thuật dạy học kiểu mới như: kĩ thuật sơ đồ KWL và một số phương pháp khác 
để hình thành và phát triển năng lực học sinh và giúp các em lĩnh hội các khái 
niệm, kiến thức Vật lí đều đảm bảo các nguyên tắc trên, nhất là các nguyên tắc 
đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức đối với học sinh và nguyên tắc bảo đảm 
tính tự lực và phát triển tư duy cho học sinh nhưng không kém phần thú vị, hấp 
dẫn thu hút học sinh với phần kiến thức mới.
II. Thực trạng vấn đề.
1. Thực trạng của hoạt động dạy và học Vật lí trong nhà trường. 
 Từ trước tới nay trong dạy học môn Vật lí, giáo viên chủ yếu sử dụng các 
phương pháp dạy học như phương pháp thuyết trình, phương pháp sử dụng các 
phương tiện trực quan, phương pháp vấn đáp. Nhiều giáo viên đã sử dụng tốt 
các phương pháp này theo hướng phát huy tính sáng tạo của học sinh. Tuy 
nhiên, cũng có giáo viên ít quan tâm tới việc giúp học sinh phát huy tính sáng 
tạo của mình trong giờ học, chỉ sử dụng các phương tiện trực quan để mang tính 
chất minh họa; tức là giáo viên chưa khai thác triệt để nguồn kiến thức từ 
phương tiện và chưa chú ý đến việc học sinh có khả năng tự làm việc với các 
phương tiện đó hay không. Tuy thời gian gần đây, việc dạy học môn Vật lí đã 
được cải thiện theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, nhưng học sinh 6/11
 - Dựa trên sơ đồ KWL, người học tự đánh giá được sự tiến bộ của mình 
trong việc học, đồng thời giáo viên biết được kết quả học tập của người học từ 
đó điều chỉnh việc dạy học cho hiệu quả.
 - Việc sử dụng sơ đồ KWL còn phát huy được tính tích cực của người học 
thông qua việc sử dụng các kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề.
 - Có thể sử dụng sơ đồ này bất cứ khi nào cần, không mất nhiều thời gian 
chuẩn bị hay sắp xếp, di chuyển vị trí trong lớp.
 Tuy nhiên không phải bài học nào trên lớp cũng áp dụng được sơ đồ này. 
Một vấn đề nữa là nhiều giáo viên chưa chịu bỏ thời gian tìm hiểu, nghiên cứu 
các kiến thức có liên quan đến bài dạy của mình, do đó học sinh không thấy 
được mối liên hệ giữa các kiến thức Vật lí với các kiến thức thuộc các môn học 
khác hay các kiến thức mà các em đã được biết ở cấp tiểu học.
III. Các biện pháp đã tiến hành.
1. Nghiên cứu tài liệu tìm hiểu về kĩ thuật sơ đồ KWL
1.1. Thế nào là sơ đồ KWL
 KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức 
dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những 
gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K 
của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các 
em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào 
cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả 
lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L.
1.2. Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau:
• Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc
• Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc
• Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em
• Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em. 8/11
 Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em: “Các em muốn 
biết thêm điều gì về chủ đề này?” Đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, 
vì các em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau:
 “Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này?”
 Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi, “Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có 
liên quan đến ý tưởng này không?”
 Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể 
giáo viên mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi 
các câu hỏi của học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài 
đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính 
trong cột W vẫn là những câu hỏi của học sinh.
 Yêu cầu học sinh đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L. 
Trong quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và 
ghi nhận vào cột W.
Học sinh có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong.
 Đối với cột L
 Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những 
điều các em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những 
ý tưởng của các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời 
cho câu hỏi ở cột W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao.
 Đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi 
ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời. (Không phải tất cả các câu hỏi ở 
cột W đều được bài đọc trả lời hoàn chỉnh)
 Thảo luận những thông tin được học sinh ghi nhận ở cột L
 Khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã 
nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài học.
3. Ví dụ về áp dụng sơ đồ KWL trong bài giảng Vật lí
3.1 Ví dụ 1: Bài 13- Công cơ học- Vật lí 8
Cách tiến hành: GV chia lớp thành 6 nhóm; Phát phiếu học tập cho học sinh 10/11
 trong các thao tác vận động + Công thức tính công? 
 trong lao động. Đơn vị?
+ Nếu có một lực F tác động 
vào vật làm vật dịch chuyển 
quãng đường s thì sản sinh 
một công là A = F.s
3.2 Ví dụ 2: Bài 4- Đoạn mạch nối tiếp- Vật lí 9
Cách tiến hành: GV chia lớp thành 6 nhóm; Phát phiếu học tập cho học sinh
Bước 1: GV yêu cầu HS tìm hiểu thông tin SGK, yêu cầu:
- Làm việc cá nhân 3 phút
+ Điền vào cột K những điều em đã biết về đoạn mạch nối tiếp
+ Điền vào cột W điều mà em muốn biết về đoạn mạch nối tiếp
 Những điều em đã biết về Những điều em muốn Những điều
 đoạn mạch nối tiếp biết về đoạn mạch nối em học được
 (Known) tiếp (Want) (Learn)
 .. .. 
 .. . .
- Thảo luận với các bạn trong nhóm, thống nhất để hoàn thành vào bảng giấy 
A0.
Bước 2: Yêu cầu một nhóm trình bày sản phầm trước lớp, các nhóm khác lắng 
nghe, quan sát, nhận xét lẫn nhau. Sau đó bổ sung vào phiếu học tập các nhân và 
nhóm
Bước 3: Dựa trên cột K và W của học sinh, giáo viên nhận xét, bổ sung, thông 
báo đây là điều em đã biết và muốn biết. Chúng ta sẽ học bài mới để tìm hiểu và 
trả lời các câu hỏi này
 Những điều em đã biết về Những điều em muốn Những điều 12/11
 - Khả năng nhớ và vận dụng kiến thức Vật lí, cách lập luận, trình bày vấn 
đề của các em tốt hơn.
 - Điểm trung bình môn cuối học kì ở các lớp thực nghiệm cao hơn đáng kể 
như
 Kết quả thi học kì 1 của lớp 8B, 9B- Không sử dụng sơ đồ KWL
 Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém
 8B 45 24 14 61 1
 9B 46 22 21 3 0
 Kết quả thi học kì 1 của lớp 8A, 9A- Sử dụng kĩ thuật sơ đồ KWL
 Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu - Kém
 8A 45 38 7 0 0
 9A 45 34 10 1 0
 Những mặt tích cực có được như thế chắc chắn là hệ quả của quá trình chủ 
động học tập, vận động tư duy, phối hợp nhóm trước đó của các em. Để giải 
được bài tập nhận thức đòi hỏi học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức, lựa 
chọn các chi tiết cần thiết để trên cơ sở đó, học sinh sử dụng các hình thức hoạt 
động tư duy như phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp, vận dụng những kiến 
thức đã biết, soi vào những điều kiện đã cho ở chủ đề, tìm ra lời giải; phát hiện 
ra kiến thức mới theo yêu cầu của chủ đề. Việc sử dụng kĩ thuật “ sơ đồ KWL” 
trong dạy học thật sự có tác dụng tích cực trong việc phát triển năng lực nhận 
thức cho học sinh. Mang lại hiệu quả rõ ràng nâng cao chất lượng trong dạy Vật 
lí. 
 Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế sau:
 - Còn có những cá nhân học sinh chưa thực sự tích cực thực hiện theo yêu 
cầu của kĩ thuật mới, nên chưa có sự chuyển biến trong hoạt động nhận thức và 
kết quả học tập. 14/11
và đầu tư nhiều hơn nữa các trang thiết bị dạy học để đem lại hiệu quả tốt hơn 
trong việc dạy và học bộ môn Vật lí nói riêng và giáo dục nói chung.
 Về phía trường: Hỗ trợ tích cực cho giáo viên trong việc áp dụng phương 
pháp mới này vào trong thực tiễn.
 Về phía ngành: Hỗ trợ thêm về phương diện thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn 
 cho công tác dạy học của giáo viên. 
 Tuy nhiên đề tài được nghiên cứu trong điều kiện tài liệu sách vở còn 
thiếu nên việc nghiên cứu không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót.
 Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng Khoa học Nhà 
trường, lãnh đạo các cấp và đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn các cấp 
quản lý giáo dục, các đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng hoàn thiện hơn. 
Tôi xin trân trọng cảm ơn!

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ki_thuat_so_do_kwl_trong_day_h.docx