Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng câu chuyện pháp luật để giảng dạy Giáo dục công dân Lớp 12
1. Tên sáng kiến: SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12.
2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 06/9/2019.
3. Các thông tin cần được bảo mật (Nếu có): Không.
4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm:
Hiện nay, ở trường Trung học phổ thông môn Giáo dục công dân lớp 12 do tính đặc thù của môn thuộc khoa học xã hội; bên cạnh đó, kiến thức môn học liên quan đến pháp luật cho nên rất "khô khan", do đó, học sinh không hứng thú học.
Trong thời gian tôi giảng dạy, tôi thấy tình trạng học sinh không học bài cũ, không xem bài mới còn phổ biến, khi đưa ra một yêu cầu về nhà sưu tầm tranh ảnh hoặc viết cảm nghĩ thì học sinh không có hứng khởi làm, có làm cũng là miễn cưỡng, bắt buộc do đó hiệu quả mang lại không cao.
Từ việc không thích học môn Giáo dục công dân lớp 12 cho nên học sinh có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, ý thức pháp luật kém, thiếu niềm tin trong cuộc sống, không có tính tự chủ, dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu. Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, như:
- Đa số giáo viên chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, vẫn còn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, giảng giải kiến thức, ít phát huy tính tích cực và phát triển tư duy; chỉ khai thác những câu chuyện, thông tin, sự kiện, tình huống có sẵn ở sách giáo khoa, chưa tự tìm tòi những điều mới để đưa vào bài giảng của mình sao cho phù hợp, sinh động.
- Chính vì học tập một cách đơn điệu thụ động nên học sinh không hiểu sâu sắc vấn đề, không biết vận dụng để giải quyết các tình huống trong cuộc sống, không có kỹ năng làm bài thi THPT QG nên kết quả không cao.
- Ngoài ra, trong thực tế dạy và học ở trường, phương tiện dạy học còn thiếu thốn. Tranh ảnh trực quan giúp học sinh tìm hiểu và liên hệ trực tiếp vào cuộc sống nhà trường chưa được trang bị.
- Đặc biệt, do tâm lý chung của mọi người, trong đó cha mẹ học sinh cho rằng đây là môn học phụ, kết quả học tập thế nào không quan trọng lắm, vì vậy cũng không quan tâm nhiều và chưa chú ý động viên con em tích cực học tập.
Từ những lí do trên mà trong giờ học Giáo dục công dân lớp 12 chưa gây hứng thú cho học sinh. Vì vậy, trong giảng dạy Giáo dục công dân lớp 12, tôi đã sử dụng các câu chuyện pháp luật để gây hứng thú cho học sinh. Đây là đề không mới mẻ, trong quá trình tìm hiểu, tham khảo tôi phát hiện những đề tài có nội dung liên quan:
+ Sáng kiến” Sử dụng phương pháp liên hệ thực tiễn thông qua câu chuyện pháp luật trong dạy học môn GDCD lớp 12” - Nguyễn Thị Hồng (trường THPT Thanh Khê – Đà Nẵng).
+ “Tình huống GDCD 12” chủ biên Trần Văn Thắng, NXB Giáo dục, năm 2008.
Nhìn chung, một số bài viết, sách tình huống GDCD 12 chưa đi sâu vào việc sử dụng các câu chuyện pháp luật trong dạy học. Sách giáo khoa GDCD 12 hiện nay chỉ có phần công dân với pháp luật, với nhiều kiến thức khó đối với học sinh. Để giúp HS hiểu và vận dụng kiến thức vào thực tiễn, trước hết GV phải tạo sự đam mê cho HS đối với môn học. Với kinh nghiệm của mình qua nhiều năm giảng dạy tôi xin mạnh dạn đưa ra một biện pháp tạo sự hứng thú cho HS bằng cách sử dụng các câu chuyện pháp luật.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng câu chuyện pháp luật để giảng dạy Giáo dục công dân Lớp 12

- Chính vì học tập một cách đơn điệu thụ động nên học sinh không hiểu sâu sắc vấn đề, không biết vận dụng để giải quyết các tình huống trong cuộc sống, không có kỹ năng làm bài thi THPT QG nên kết quả không cao. - Ngoài ra, trong thực tế dạy và học ở trường, phương tiện dạy học còn thiếu thốn. Tranh ảnh trực quan giúp học sinh tìm hiểu và liên hệ trực tiếp vào cuộc sống nhà trường chưa được trang bị. - Đặc biệt, do tâm lý chung của mọi người, trong đó cha mẹ học sinh cho rằng đây là môn học phụ, kết quả học tập thế nào không quan trọng lắm, vì vậy cũng không quan tâm nhiều và chưa chú ý động viên con em tích cực học tập. Từ những lí do trên mà trong giờ học Giáo dục công dân lớp 12 chưa gây hứng thú cho học sinh. Vì vậy, trong giảng dạy Giáo dục công dân lớp 12, tôi đã sử dụng các câu chuyện pháp luật để gây hứng thú cho học sinh. Đây là đề không mới mẻ, trong quá trình tìm hiểu, tham khảo tôi phát hiện những đề tài có nội dung liên quan: + Sáng kiến” Sử dụng phương pháp liên hệ thực tiễn thông qua câu chuyện pháp luật trong dạy học môn GDCD lớp 12” - Nguyễn Thị Hồng (trường THPT Thanh Khê – Đà Nẵng). + “Tình huống GDCD 12” chủ biên Trần Văn Thắng, NXB Giáo dục, năm 2008. Nhìn chung, một số bài viết, sách tình huống GDCD 12 chưa đi sâu vào việc sử dụng các câu chuyện pháp luật trong dạy học. Sách giáo khoa GDCD 12 hiện nay chỉ có phần công dân với pháp luật, với nhiều kiến thức khó đối với học sinh. Để giúp HS hiểu và vận dụng kiến thức vào thực tiễn, trước hết GV phải tạo sự đam mê cho HS đối với môn học. Với kinh nghiệm của mình qua nhiều năm giảng dạy tôi xin mạnh dạn đưa ra một biện pháp tạo sự hứng thú cho HS bằng cách sử dụng các câu chuyện pháp luật. 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: Bắt đầu từ năm học 2016- 2017, môn GDCD chính thức trở thành môn thi tốt nghiệp trong kì thi THPT Quốc gia. Vì thế, giảng dạy môn GDCD, để gây hứng 2 khẩ năng vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn, khắc sâu hơn kiến thức pháp luật để giải quyết các bài tập tình huống trong đề thi THPT QG. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi THPT QG và ôn thi HSG môn GDCD. 7. Nội dung: 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến * Giải pháp 1: QUY TRÌNH SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12. - Tên giải pháp: QUY TRÌNH SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢNG DẠY GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12. - Nội dung: Sử dụng câu chuyện pháp luật để dạy học Giáo dục công dân lớp 12. - Các bước tiến hành thực hiện giải pháp : Bước 1: Giáo viên chuẩn bị các câu chuyện pháp luật có nội dung phù hợp với bài học. Sau đó, giáo viên tóm tắt ý chính của câu chuyện cho ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đưa vào bài học. Đặt ra những tình huống cụ thể để cho học sinh theo dõi. Bước 2: Học sinh lắng nghe câu chuyện. Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích và trả lời câu hỏi ở cuối câu chuyện. Bước 3: Giáo viên theo dõi, lắng nghe, phân tích và tổng hợp các ý kiến của học sinh trả lời; đồng thời nhận xét, bổ sung và đưa ra kết luận. Ví dụ 1: Khi truyền đạt kiến thức ở phần 1b: "Nội dung bình đẳng trong hôn nhân và gia đình" (Bình đẳng giữa cha mẹ và con cái) - Bài 4: "Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội", Giáo viên kể, trình chiếu hình ảnh và tóm tắt nội dung câu chuyện pháp luật cho học sinh nghe: “Con gái ngược đãi mẹ già”. 4 Liên Chiểu (Đà Nẵng).Đến 16 giờ cùng ngày, giữa Sơn và Lợi xảy ra mâu thuẫn dẫn đến đánh nhau. Thấy vậy, Tài đứng dậy can ngăn thì bất ngờ bị Hiệp đấm vào mặt. Khi Tài hỏi "sao anh lại đánh em?", thì tiếp tục bị Hiệp đấm tiếp vào má. Lúc này, Tài bỏ chạy ra ngoài thì Sơn đuổi theo, Hiệp chạy theo can ngăn Sơn và đứng cách Tài khoảng 2 mét. Bực tức vì vừa bị đánh trong lúc can ngăn ẩu đả, Tài nhặt cục đá bê tông ném trúng vào đầu Hiệp, khiến nạn nhân ngã xuống đường bất tỉnh. Ngay sau đó, Hiệp được mọi người đưa đi cấp cứu, còn Tài bỏ về nhà. Kết quả giám định Hiệp bị thương tích 28%.Theo hồ sơ, Tài là đối tượng có 2 tiền án, từng bị 5 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 3 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.Trong vụ án này, dù đã có hành vi đánh nhau nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Sơn, Lợi và Hiệp chỉ bị xử phạt hành chính. • Bị cáo Nguyễn Tấn Tài.(Nguồn: Báo Pháp luật Việt Nam). - Bước 1: Giáo viên tóm tắt ý chính và kể cho học sinh nghe về câu chuyện để củng cố phần 1b trong khoảng 2 phút. - Bước 2: Giáo viên đưa ra câu hỏi sau khi kết thúc: 1. Những hành vi của từng nhân vật trong câu chuyện? 2. Em có nhận xét gì hành vi đó? - Bước 3: Giáo viên theo dõi và phân tích, tổng hợp ý kiến của các nhóm, đồng thời bổ sung, kết luận: Tài là đối tượng có 2 tiền án, từng bị 5 năm tù về tội 6 5. Nội dung tích hợp trong môn và tích hợp liên môn * Môn GDCD: Giáo dục biên giới quốc gia, biển đảo, Giáo dục kĩ năng sống, Phòng chống tham nhũng * Liên môn: II. PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC 1. Phương pháp dạy học: Tổ chức hoạt động thảo luận nhóm, xử lí tình huống, đóng vai, kể chuyện 2. Hình thức dạy học chính: làm việc theo nhóm, làm việc cá nhân học sinh nghiên cứu tự học, tự làm dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Dạy học trên lớp là chủ yếu, kết hợp làm việc tại nhà và tìm hiểu trên các kênh thông tin khác nhau III. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH 1. Chuẩn bị của giáo viên - Tài liệu chính thức: Sách giáo khoa, sách giáo viên Giáo dục công dân. - Tài liệu tham khảo khác: + Hồ Thanh Diện: Thiết kế bài giảng Giáo dục công dân, NXB. Hà Nội, 2007. + Vũ Hồng Tiến - Trần Văn Thắng - Nguyễn Thị Hoa: Tình huống Giáo dục công dân, NXB. Giáo dục, TP. Hồ Chí Minh, 2008. - Dùng các dụng cụ dạy học trực quan như sơ đồ tư duy, máy chiếu, bảng phụ, bút dạ. 2. Chuẩn bị của học sinh - Dùng các dụng cụ học tập, bảng phụ, bút dạ, vở ghi. III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 1. Ổn định tổ chức lớp: Kiểm tra sĩ số lớp, kiểm tra việc chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dung học tập của học sinh, các nhóm học sinh 2. Kiểm tra bài cũ: Học sinh trình bày kết quả chuẩn bị nhiệm vụ đã giao ở bài học trước: Bộ luật hình sự quy định như thế nào về người không có năng lực trách nhiệm hình sự. 3. Các hoạt động học: I. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG 8 II. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI Hoạt động của Giáo viên và Học sinh Nội dung bài học Hoạt động 2: Tìm hiểu nội dung các loại vi c/Các loại vi phạm phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí pháp luật và trách * Mục tiêu, phương pháp, hình thức: Phân biệt nhiệm pháp lí: được các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý. GV sử dụng phương pháp thuyết trình thảo luận nhóm để giúp các e hiểu nội dung bài * Vi phạm hình sự: Là học trên lớp những hành vi nguy hiểm * Thời gian: 20 phút cho xã hội bị coi là tội * Cách tiến hành: + GV phát phiếu học tập và phạm quy định tại Bộ hướng dẫn HS làm việc theo yêu cầu: Thảo luận luật Hình sự. nhóm đôi, ghi những nội dung cơ bản của các loại - TNHS: Người phạm vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí tương tội phải chịu trách nhiệm ứng theo phiếu học tập: hình sự, phải chấp hành + Cá nhân HS đọc SGK và thực hiện yêu cầu của hình phạt theo quy định phiếu học tập. của Tòa án. Người từ đủ - Thực hiện nhiệm vụ học tập: Học sinh thảo luận 14 đến dưới 16 tuổi phải nhóm đôi để hoàn thiện phiếu học tập.Báo cáo kết chịu trách nhiệm hình sự quả thực hiện nhiệm vụ về tội phạm rất nghiêm + GV yêu cầu đại diện từng nhóm đôi học sinh (4 trọng do cố ý hoặc tội nhóm) trình bày phần làm việc của mình (có thể phạm đặc biệt nghiêm viết lên khổ giấy A0 đã được in theo mẫu trên, trọng. Người từ 16 tuổi hoặc đọc trước lớp) trở lên phải chịu trách + HS: Nhận xét bổ sung nhiệm hình sự về mọi tội - Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: phạm . Giáo viên nhận xét kết quả thảo luận và định * Vi phạm hành chính: hướng học sinh nêu: Là hành vi vi phạm pháp - Vi phạm hình sự luật có mức độ nguy 10 vệ. chưa đủ 18 tuổi khi tham + Trách nhiệm pháp lí tương ứng: Cán bộ, công gia các giao dịch dân sự chức, viên chức vi phạm kỉ luật phải chịu trách phải được người đại diện nhiệm kỉ luật với các hình thức khiển trách, cảnh theo PL cáo, hạ bậc lương, chuyển công tác khác, buộc thôi *Vi phạm kỉ luật: Là vi việc, . phạm pháp luật xâm * Dự kiến sản phẩm của học sinh: Phân biệt rõ phạm các quan hệ lao được các loại vi phạm pháp luật và những biểu động, công vụ nhà hiện của nó trong đời sống nước do pháp luật lao động, pháp luật hành chính bảo vệ. * Dự kiến đánh giá năng lực: Thông qua việc - TNKL: Cán bộ, công giảng dạy sẽ góp phần hình thành, phát triển chức, viên chức vi phạm cho học sinh các phẩm chất như: trung thực, kỉ luật phải chịu trách trách nhiệm, năng lực điều chỉnh hành vi, năng lực nhiệm kỉ luật với các phát triển bản thân hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển công tác khác, buộc thôi việc III. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP * Mục tiêu, phương pháp, hình thức: Giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức về các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý, để từ đó có thái độ tôn trọng pháp luật. Sử dụng linh hoạt các phương pháp như đàm thoại, phát vấn và giải quyết vấn đề. Kết hợp việc giao bài tập theo cá nhân và nhóm với việc học sinh chủ động làm việc trên lớp * Thời gian: 8 phút * Cách tiến hành: Giáo viên kể cho học sinh nghe câu chuyện pháp luật: Ngày 3/4, TAND TP Đà Nẵng mở phiên xét xử lưu động và tuyên phạt bị cáo Nguyễn Tấn Tài (SN 1993, ngụ phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu) 10 năm 6 tháng tù về tội Giết người. 12 1. Những hành vi của từng nhân vật trong câu chuyện? 2. Em có nhận xét gì hành vi đó? - Bước 3: Giáo viên theo dõi và phân tích, tổng hợp ý kiến của các nhóm, đồng thời bổ sung, kết luận: Tài là đối tượng có 2 tiền án, từng bị 5 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 3 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.Trong vụ án này, dù đã có hành vi đánh nhau nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Sơn, Lợi và Hiệp chỉ bị xử phạt hành chính. Học sinh làm bài tập trắc nghiệm sau: Câu 1: Theo quy định của pháp luật, người có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, bị coi là tội phạm thì phải A. hủy bỏ mọi thông tin. B. chịu trách nhiệm hình sự. C. chịu khiếu nại vượt cấp. D. hủy bỏ đơn tố cáo. Câu 2: Vi phạm kỉ luật là hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm các quan hệ lao động và A. giao dịch dân sự. B. trao đổi hàng hóa. C. chuyển nhượng tài sản. D. công vụ nhà nước. Câu 9: Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm, xâm phạm các A. quy tắc quản lí xã hội. B. quy tắc quản lí của nhà nước. C. quy tắc kỉ luật lao động. D. nguyên tắc quản lí hành chính. Câu 3: Công dân có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm tới các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản thuộc loại vi phạm nào sau đây? A. Vi phạm công vụ B. Vi phạm quy chế C. Vi phạm hành chính D. Vi phạm dân sự Câu 4: Người phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm do mình gây ra có độ tuổi nào dưới đây? A. Từ 15 tuổi trở lên. B. Từ 16 tuổi trở lên. C. Từ đủ 14 tuổi trở lên. D. Từ đủ 16 tuổi trở lên. Câu 5: Những hành vi vi phạm pháp luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, vi phạm đến các quy tắc quản lý của nhà nước là gì? 14
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_cau_chuyen_phap_luat_de_giang.doc