Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các bài toán thực tế trong môn Toán Lớp 7 nhằm phát huy năng lực học sinh đáp ứng chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)
Trong xu thế phát triển hội nhập của thời đại công nghiệp 4.0, việc đổi mới giáo dục phổ thông ở nước ta hiện nay là hoàn toàn cần thiết. Chúng ta đang dịch chuyển từ giáo dục chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức và kỹ năng sang giáo dục chú trọng phát triển năng lực cho học sinh ở tất cả các môn học, trong đó có môn Toán. Qua mục tiêu của chương trình GDPT môn Toán mới được Bộ GD&ĐT ban hành ngày 26/12/2018. Cụ thể là, môn Toán hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các thành tố cốt lõi là năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình hóa toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện toán; phát triển kiến thức, kỹ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn. Giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa toán học với các môn khoa học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn.
Theo nguyên lí giáo dục: “ Học đi đôi với hành” trong môn Toán. Dạy học có liên hệ toán học với thực tế cần rèn luyện cho học sinh ý thức, thói quen nhìn nhận các vấn đề trong cuộc sống xung quanh qua “lăng kính của Toán học”, tập dượt vận dụng kiến thức để giải thích những ứng dụng toán học, biết đề ra những bài toán thực tế, chịu khó đi sâu học hỏi, tìm tòi cách giải các bài toán một cách sáng tạo.
Đối với môn học xã hội thì các ứng dụng thực tế là rất dễ thấy. Học môn địa lý thì các em có thể hiểu vì sao có các hiện tượng ngày, đêm, mưa, gió... vì vậy rất dễ lôi cuốn sự hứng thú của học sinh. Ngược lại môn toán thì sao? Có lẽ ai đã từng học toán, đang học toán đều có suy nghĩ rằng toán học ngoài những phép tính đơn giản như cộng, trừ, nhân, chia ...thì hầu hết các kiến thức toán khác là rất trừu tượng đối với học sinh. Vì vậy việc học toán trở thành một áp lực nặng nề đối với học sinh. Các em nghĩ rằng, toán học là mơ hồ, xa xôi, học chỉ là học mà thôi. Học sinh học toán chỉ có một mục đích duy nhất đó là thi cử. Hình như ngoài điều đó ra các em không biết học toán để làm gì. Vì vậy, các em học sinh có quyền nghi ngờ rằng liệu toán học có ứng dụng vào thực tế được không nhỉ? Sự thật là toán học có rất nhiều ứng dụng vào thực tế và nó thể hiện rất rõ trong cuộc sống hằng ngày của con người nhưng chúng ta không để ý mà thôi.
Theo nguyên lí giáo dục: “ Học đi đôi với hành” trong môn Toán. Dạy học có liên hệ toán học với thực tế cần rèn luyện cho học sinh ý thức, thói quen nhìn nhận các vấn đề trong cuộc sống xung quanh qua “lăng kính của Toán học”, tập dượt vận dụng kiến thức để giải thích những ứng dụng toán học, biết đề ra những bài toán thực tế, chịu khó đi sâu học hỏi, tìm tòi cách giải các bài toán một cách sáng tạo.
Đối với môn học xã hội thì các ứng dụng thực tế là rất dễ thấy. Học môn địa lý thì các em có thể hiểu vì sao có các hiện tượng ngày, đêm, mưa, gió... vì vậy rất dễ lôi cuốn sự hứng thú của học sinh. Ngược lại môn toán thì sao? Có lẽ ai đã từng học toán, đang học toán đều có suy nghĩ rằng toán học ngoài những phép tính đơn giản như cộng, trừ, nhân, chia ...thì hầu hết các kiến thức toán khác là rất trừu tượng đối với học sinh. Vì vậy việc học toán trở thành một áp lực nặng nề đối với học sinh. Các em nghĩ rằng, toán học là mơ hồ, xa xôi, học chỉ là học mà thôi. Học sinh học toán chỉ có một mục đích duy nhất đó là thi cử. Hình như ngoài điều đó ra các em không biết học toán để làm gì. Vì vậy, các em học sinh có quyền nghi ngờ rằng liệu toán học có ứng dụng vào thực tế được không nhỉ? Sự thật là toán học có rất nhiều ứng dụng vào thực tế và nó thể hiện rất rõ trong cuộc sống hằng ngày của con người nhưng chúng ta không để ý mà thôi.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các bài toán thực tế trong môn Toán Lớp 7 nhằm phát huy năng lực học sinh đáp ứng chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng các bài toán thực tế trong môn Toán Lớp 7 nhằm phát huy năng lực học sinh đáp ứng chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)

2 động chưa biết vận dụng kiến thức nào để giải bài toán đó hay lấy ví dụ thực tế liên quan đến nội dung kiến thức vừa học. Tuy nhiên số lượng bài tập chưa liên tục và không đều, vì vậy giáo viên cần tăng cường lựa chọn, đưa thêm vào các bài tập có nội dung sát với thực tiễn để học sinh có điều kiện áp dụng kiến thức Toán học vào cuộc sống. Đa số giáo viên đã có quan tâm đến việc khai thác tình huống thực tế vào dạy học môn Toán nhưng hiệu quả chưa cao, chưa liên tục, chưa có phương pháp cụ thể khoa học. Chỉ một số ít giáo viên chủ động tìm hiểu, còn số đông giáo viên có quan tâm nhưng không chủ động tìm hiểu mà chủ yếu sử dụng các bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập. Mặc dù hầu hết các thầy cô đều khẳng định rằng, nếu tăng cường khai thác các tình huống thực tế vào dạy học thì sẽ làm cho học sinh tích cực hơn trong việc học môn Toán. Nhưng việc tìm hiểu, khai thác các tình huống thực tế vào dạy học hiện nay của giáo viên còn hạn chế. Tôi cho rằng hạn chế trên có thể do những nguyên nhân chính sau: + Khối lượng kiến thức yêu cầu ở mỗi tiết học là khá nhiều và độ khó tăng dần theo cấp học khiến giáo viên vất vả trong việc hoàn thành bài giảng trên lớp. + Do áp lực thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục nên dẫn đến cách dạy và cách học phổ biến hiện nay là “thi gì, học nấy”, “không thi, không học”. + Do yêu cầu vận dụng Toán học vào thực tế chưa đươc đặt ra một cách thường xuyên và cụ thể trong quá trình đánh giá (các nội dung yêu cầu khả năng vận dụng kiến thức toán học vào thực tế xuất hiện rất ít trong các kì thi). + Khả năng liên hệ kiến thức Toán học vào thực tiễn của giáo viên Toán còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là vì bản thân giáo viên trong quá trình học tập ở phổ thông cũng như quá trình đào tạo tại các trường sư phạm ít khi được tiếp cận cũng như đào tạo một cách có hệ thống về cách khai thác, vận dụng kiến thức Toán học vào thực tế. Đa số học sinh nhận thức được tầm quan trọng của môn Toán, toán rất cần thiết cho cuộc sống. Học sinh cũng rất muốn biết về ứng dụng của nó trong thực tế cuộc sống. Tuy nhiên nhiều học sinh nghĩ rằng môn Toán là môn học khó, vốn kiến thức thực tế của học sinh rất hạn chế do đó các em thường cảm thấy lúng túng khi phân tích tìm lời giải cho một bài toán có nội dung thực tế. Xuất phát từ các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn trình bày ở trên và qua thực tế giảng dạy bản thân tôi nhận thức được vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng của việc rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Sử dụng các bài toán thực tế trong môn Toán lớp 7 nhằm phát huy năng lực học sinhđáp ứng chương trình GDPT 2018” làm sáng kiến kinh nghiệm. 4 PHẦN II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI I. Cơ sở lý luận Trong học tập và nghiên cứu toán học, để đạt được hiệu quả tốt đều cần có sự hài hòa giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận là những chỉ dẫn giúp hoạt động thực tiễn của con người đi đúng hướng. Ngược lại, hoạt động thực tiễn cũng giúp lý luận có ý nghĩa hơn. Động lực phát triển của Toán học dựa vào sự hỗ trợ lẫn nhau giữa lý luận và thực tiễn. Rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức Toán học vào thực tiễn là phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới và thực tiễn Việt Nam. Rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng Toán học vào thực tiễn có vai trò quan trọng và góp phần phát triển cho học sinh những năng lực trí tuệ, những phẩm chất tính cách, thái độ, ... đáp ứng yêu cầu mới của xã hội lao động hiện đại. Tăng cường rèn luyện năng lực ứng dụng Toán học vào thực tiễn là một mục tiêu, một nhiệm vụ quan trọng của việc dạy học Toán ở trường học: thay cho việc dạy học sinh một khối lượng lớn kiến thức, trước hết ta phải dạy cho họ cách huy động có hiệu quả các kiến thức đã được học để giải quyết một cách hữu ích những tình huống xuất hiện trong thực tiễn. II. Thực trạng của đề tài 1. Học sinh Khối lớp 7 của trường tôi có số lượng học sinh không đồng đều về nhận thức; gây khó khăn cho giáo viên trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp. Nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần do đó việc đầu tư về thời gian và sách vở cho học tập bị hạn chế nhiều và ảnh hưởng không nhỏ đến sự nhận thức và phát triển của các em. Đa số học sinh hay thỏa mãn trong học tập, các em cho rằng các kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa là kết tinh của các nhà toán học, đó là những kiến thức đầy đủ nhất và chỉ cần học thuộc lòng nó để vận dụng vào làm các bài tập là xong. Chính vì vậy học sinh tiếp thu một cách thụ động, không cần suy nghĩ, mày mò để tự mình khám phá ra kiến thức mới như một khái niệm, một định lý hay một tính chất nào đó...và những kiến thức đó không ăn sâu vào trí óc của học sinh, làm cho học sinh dễ quên khi vận dụng vào làm các bài tập. Cụ thể sau khi nhận lớp và dạy một thời gian tôi đã tiến hành điều tra cơ bản thì thấy thực trạng lớp 7A4: với sĩ số 42 HS thì số em lười học bài, lười làm bài tập chiếm khoảng 50%; số học sinh nắm chắc kiến thức và biết vận dụng vào bài tập có khoảng 15%. Kết quả cụ thể: 6 7% 3% Khó Không khó lắm 49% Dễ 41% Rất khó Dựa vào các thống kê, biểu đồ trên chúng ta thấy rằng đa số HS nhận thức được tầm quan trọng của môn Toán (22,8% cho rằng Toán học là cần thiết và có đến 70,5% cho rằng nó rất cần thiết cho cuộc sống); cũng như rất muốn biết về ứng dụng của nó trong thực tế cuộc sống (92,8%). Tuy nhiên có đến một nửa số HS được hỏi nghĩ rằng môn Toán là môn học khó (49%) hoặc rất khó (7%). 2. Giáo viên Đa số giáo viên đã có quan tâm đến việc khai thác tình huống thực tế vào dạy học môn Toán nhưng hiệu quả chưa cao, chưa liên tục, chưa có phương pháp cụ thể khoa học. Chỉ một số ít giáo viên chủ động tìm hiểu, còn số đông giáo viên có quan tâm nhưng không chủ động tìm hiểu mà chủ yếu sử dụng các bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập. Mặc dù hầu hết các thầy cô đều khẳng định rằng, nếu tăng cường khai thác các tình huống thực tế vào dạy học thì sẽ làm cho học sinh tích cực hơn trong việc học môn Toán. Nhưng việc tìm hiểu, khai thác các tình huống thực tế vào dạy học hiện nay của giáo viên còn hạn chế. Tôi cho rằng hạn chế trên có thể do những nguyên nhân chính sau: + Khối lượng kiến thức yêu cầu ở mỗi tiết học là khá nhiều và độ khó tăng dần theo cấp học khiến giáo viên vất vả trong việc hoàn thành bài giảng trên lớp. + Do áp lực thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục nên dẫn đến cách dạy và cách học phổ biến hiện nay là “thi gì, học nấy”, “không thi, không học”. + Do yêu cầu vận dụng Toán học vào thực tế chưa đươc đặt ra một cách thường xuyên và cụ thể trong quá trình đánh giá (các nội dung yêu cầu khả năng vận dụng kiến thức toán học vào thực tế xuất hiện rất ít trong các kì thi). + Khả năng liên hệ kiến thức Toán học vào thực tiễn của giáo viên Toán còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là vì bản thân giáo viên trong quá trình học tập ở phổ thông cũng như quá trình đào tạo tại các trường sư phạm ít khi được tiếp cận 8 Trong hoạt động mở đầu, câu trả lời của học sinh đưa ra có thể chưa chính xác nhưng không sao giáo viên cho vài em đưa ra câu trả lời để tạo tình huống có vấn đề từ thực tế. Muốn biết ai trả lời đúng thì phải theo dõi nội dung bài học. Trong hoạt động này đòi hỏi người giáo viên phải khéo léo kết hợp giữa bài toán thực tế và hình ảnh thực tế với kiến thức bài học, để học sinh thấy được nhu cầu cần giải quyết từ đó sẽ tập trung học bài để tìm câu trả lời. Và điều quan trọng sau khi học sinh học kiến thức xong giáo viên phải quay lại bài toán mở đầu để học sinh vận dụng tìm ra câu trả lời. Ví dụ 1. Khi dạy bài: Đại lượng tỷ lệ thuận – Sách Toán 7 KNTT, giáo viên đưa ra bài toán sau: Bột sắn dây được làm từ củ sắn dây, là một loại thực phẩm có nhiều tác dụng tốt với sức khỏe. Ông An nhận thấy cứ 4,5kg củ sắn dây tươi thì thu được khoảng 1kg bột. Hỏi với 3 tạ củ sắn dây tươi, ông An sẽ thu được khoảng bao nhiêu kilôgam bột sắn dây? Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý, đặt vấn đề: + Giáo viên dẫn dắt, đặt câu hỏi: Theo em, khối lượng bột sắn dây sẽ tăng hay giảm? + Giáo viên nhận xét, chốt kết quả: số kg sắn dây tươi và số kg bột sắn dây là hai đại lượng tỉ lệ thuận. Ví dụ 2. Khi dạy bài: Lũy thừa của một số hữu tỉ - Toán 7. Tôi đưa ra bài tập sau: Trái đất ngôi nhà chung của chúng ta có khoảng 71% diện tích bề mặt được bao phủ bởi nước. Nếu gom hết lượng nước trên Trái đất để đổ vào một chiếc hộp hình lập phương thì kích thước cạnh của bể phải lên đến 1111,34 km (Theo usgs.gov) Hướng dẫn. Muốn biết lượng nước trên Trái đất là bao nhiêu km khối, ta cần tính 1111,34 . 1111,34 . 1111,34. Biểu thức này có thể viết gọn dưới dạng lũy thừa giống như lũy thừa của một số tự nhiên mà các em đã học ở lớp 6. Vậy biểu thức đo được viết gọn như thế nào thì chúng ta sẽ tìm được câu trả lời trong bài học hôm nay. Ví dụ 3. Khi dạy bài: Đại lượng tỉ lệ nghịch. Tôi đưa ra bài tập sau: 10 Ví dụ 3. Khi dạy bài: Hai tam giác bằng nhau. Trường hợp bằng nhau thứ nhất của tam giác. - GV đưa ra các hình ảnh: Yêu cầu học sinhnhận xét về hình dạng các hình xuất hiện trong các bức tranh 3. Đưa ra các bài toán có nội dung thực tiễn vào hoạt động luyện tập, vận dụng Ví dụ 1. Khi dạy bài: Quan hệ giữa góc và cạnh trong tam giác. Tôi đưa ra bài toán 9.4 (trang 62) – Sách giáo khoa Toán 7 - Kết nối tri thức với cuộc sống. Bài 9.4. (trang 62) 12 Hướng dẫn. Coi địa điểm ba gia đình là ba đỉnh của tam giác. Để khoảng cách từ giếng đến các nhà là bằng nhau thì vị trí chọn đào giếng phải là giao điểm các đường trung trực của tam giác ấy. B A C 4. Tăng cường hợp lí hoạt động thực hành, trải nghiệm, dạy học Stem trong từng tiết dạy Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi thấy với phân môn Hình học chúng ta có thể cho học sinh hình thành tính chất thông qua hoạt động thực hành. Từ hoạt động thực hành đó học sinh phát hiện ra tính chất của các hình. Ví dụ 1. Khi dạy bài: Tam giác cân. Đường trung trực của đoạn thẳng - Toán 7. Khi tìm hiểu về tính chất của tam giác cân được phát hiện qua cách khảo sát bằng gấp hình. Sự khảo sát gợi cho ta thấy rằng khi hai cạnh của một tam giác bằng nhau thì các góc đối diện của chúng cũng bằng nhau. Ngược lại, ta thấy rằng khi hai góc của một tam giác bằng nhau thì các cạnh đối diện của chúng cũng bằng nhau. Từ thực tế gấp hình học sinh phát hiện tính chất của tam giác cân dễ dàng hơn. Ví dụ 2. Khi dạy bài: Sự đồng quy của ba trung tuyến, ba đường phân giác trong một tam giác (Sách giáo khoa Toán 7 – bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống) thì định lí về tính chất ba đường trung tuyến của tam giác là một định lí khó hình dung và rất ít học sinh biết áp dụng nó vào bài tập. Vì thế trước khi đưa định lí (Sách giáo khoa) ra thì giáo viên cần cho học sinh tiến hành các thao tác thực hành trước: 14 bài tập có nội dung thực tiễn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực vận dụng kiến thức Toán học để giải quyết một số bài toán có nội dung thực tiễn trong dạy học Toán lớp 7. Đồng thời đưa ra một số gợi ý về phương pháp dạy học sử dụng Hệ thống bài tập đã được xây dựng. CHƯƠNG III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 1. Đánh giá chung Sau khi áp dụng sáng kiến “Sử dụng các bài toán thực tế trong môn Toán lớp 7 nhằm phát huy năng lực học sinh đáp ứng chương trình GDPT 2018” tôi thu được những kết quả rất đáng mừng: + Thứ nhất: Học sinh không còn sợ học toán nữa. Trong giờ học các em được thực hành, vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết tình huống nên các em rất tích cực xây dựng bài. + Thứ hai: Học sinh chú ý nghe giảng và hiểu bài hơn. + Thứ ba: Giờ học diễn ra sôi nổi và vui vẻ. + Thứ tư: Trong mỗi tiết dạy tôi chủ động phân định đối tượng học sinh theo 3 cấp: khá giỏi, trung bình và yếu kém để giao nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng từ đó lôi cuốn tất cả các em cùng tham gia vào xây dựng bài học. Câu hỏi của giáo viên cũng cần phải gợi mở, dễ hiểu để kích thích sự suy nghĩ của các em. + Thứ năm: Chất lượng bộ môn được nâng cao. 2. Kết quả định lượng Sau khi kết thúc chương VI, tôi đã cho lớp 7A4 (lớp thực nghiệm) và lớp 7A3 (lớp đối chứng) cùng làm bài kiểm tra trong thời gian 15 phút với bài toán có nội dung thực tiễn sau: Đề bài: Bốn người thợ cùng làm sẽ xây xong một bức tường trong 9 ngày. Hỏi 6 người thợ cùng làm sẽ xây xong bức tường đó trong bao nhiêu ngày (biết năng suất lao động của mỗi người thợ là như nhau) ? Kết quả cụ thể thu được như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % 7A3 40 13 32,5 15 37,5 10 25 2 5 7A4 42 12 29 15 36 13 31 2 4 So với khi chưa áp dụng kết quả được cải thiện rất nhiều.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_cac_bai_toan_thuc_te_trong_mon.pdf