Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng chia cho học sinh chưa đạt mục tiêu bài học Lớp 4

Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí quan trọng, vì:
-Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống; Chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở tiểu học và học tập tiếp môn toán ở Trung học.
-Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong cuộc sống.
-Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề; nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch và tác phong khoa học.
Trong dạy học Toán, quán triệt nguyên lý giáo dục: “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động, nhà trường gắn liền với xã hội” là thiết thực góp phần thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục toán học ở Tiểu học.
pdf 19 trang Thanh Ngân 06/09/2025 120
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng chia cho học sinh chưa đạt mục tiêu bài học Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng chia cho học sinh chưa đạt mục tiêu bài học Lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng chia cho học sinh chưa đạt mục tiêu bài học Lớp 4
 BÁO CÁO SÁNG KIẾN 
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN: 
 1-Xuất phát từ cơ sở lý luận. 
 Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những 
cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học 
ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí quan trọng, vì: 
 -Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời 
sống; Chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác ở 
tiểu học và học tập tiếp môn toán ở Trung học. 
 -Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình 
dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có phương pháp nhận 
thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong 
cuộc sống. 
 -Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy 
nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề; nó góp phần phát triển 
trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào việc hình 
thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn 
thận, có ý chí vượt khó khăn, làm việc có kế hoạch và tác phong khoa học. 
 Trong dạy học Toán, quán triệt nguyên lý giáo dục: “Học đi đôi với hành, giáo 
dục kết hợp với lao động, nhà trường gắn liền với xã hội” là thiết thực góp phần 
thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục toán học ở Tiểu học. 
 2-Xuất phát từ cơ sở thực tiễn. 
 Trước thực tế đó, đầu năm học khi nhận lớp, qua khảo sát thực tế học sinh. Tôi 
nhận thấy: Một số em học sinh giỏi, khá đã biết vận dụng kiến thức học vào thực tế 
bởi các em đã thực hiện thành thạo về cộng, trừ, nhân, chia ... Trong khi đó một bộ 
phận chưa đạt mục tiêu bài học về kiến thức chia chưa thực hiện được nên việc vận 
dụng vào thực tế là rất khó khăn. Nên để các em làm được điều đó là rất khó. Trong 
quá trình dạy tôi đã đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Làm như thế nào? Dạy làm sao? 
Dùng phương pháp nào? Để giảng, dạy các em. Chính vì vậy, ngay đầu năm học tôi 
lựa chọn đề tài: “Rèn kỹ năng chia cho học sinh chưa đạt mục tiêu bài học” lớp 4. 
 2 
 Chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh, dạy một chiều. 
Bên cạnh đó nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của các bài toán chia trong môn Toán 
cũng chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm. 
 * Đối với học sinh: 
 Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy 
suy nghĩ, tìm tòi cho mình những phương pháp tự học đúng để biến tri thức của Sách 
giáo khoa thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được 
lượng kiến thức bài học, chóng quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh - nhất là đối với 
kỹ năng chia. 
 Do còn nhiều gia đình, phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm tới việc học 
tập của con em. 
 Năng lực tư duy còn nhiều hạn chế (nhất là với những chưa đạt mục tiêu bài 
học kĩ năng thao tác tính kém) nên rất nhiều em khi làm bài tập thường tính sai kết 
quả. Qua tìm hiểu đồng nghiệp không chỉ học sinh lớp 4 mà ngay cả học sinh lớp 5 
vẫn còn một số em chia cho số có 2,3 chữ số còn lúng túng. 
II. Mô tả giải pháp. 
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. 
 Qua kiểm tra, khảo sát chất lượng đầu năm 29 em học sinh lớp 4C với đề bài 
như sau: 
 *Đặt tính rồi tính kết quả: 
 a. 130: 5 b. 816: 4 c. 28472: 6 d. 740: 2 
 (Mỗi bài tính đúng cho 2,5 điểm) 
 * Kết quả thu được như sau: 
Tổng số em tham Số em Số em Số em Số em Số em Số em 
 gia khảo sát đặt tính làm làm sai làm sai làm sai làm sai 
 đúng đúng hết một bài hai bài ba bài cả 4 bài 
 29 29 18 3 3 4 1 
 Từ bảng khảo sát trên, ta có thể biết được tỉ lệ học sinh, chưa biết chia còn cao, 
nhiều em kĩ năng thao tác còn chưa chắc chắn. 
 Qua thực tế của lớp mình, tôi đã hướng dẫn, giúp đỡ các em theo trình tự sau: 
 4 
 GIAI ĐOẠN 1. 
 ÔN TẬP LẠI NỘI DUNG CƠ BẢN PHÉP CHIA NGOÀI BẢNG Ở LỚP 3 
 Trong một thời gian thực hiện ở buổi 2 và buổi dạy thêm chiều thứ sáu: Tôi 
chia lớp ra nhiều nhóm, mỗi nhóm có lượng bài khác nhau, mức độ khác nhau và 
được thể hiện trong các giải pháp sau. 
 Giải pháp 1. Kiểm tra việc học thuộc bảng nhân, bảng chia của học sinh: 
 Bất kỳ một dạng toán nào học sinh cũng được đi từ bài dễ đến bài khó. Để thực 
hiện được chia ngoài bảng, việc đầu tiên là yêu cầu học sinh phải thuộc nhân chia 
trong bảng. Giáo viên cùng Trưởng ban học tập và nhóm trưởng thường xuyên kiểm 
tra việc học thuộc nhóm chia trong bảng, thường xuyên kiểm tra việc học thuộc lòng 
các bảng nhân, chia của học sinh (kiểm tra 15 phút đầu giờ, học sinh tự kiểm tra) cho 
đến khi các em thật thuộc, thật nhớ. 
 Giải pháp 2. Ôn lại một số tính chất của phép nhân, phép chia: 
 * Tính chất giao hoán của phép nhân. 
 *Tính chất kết hợp của phép nhân. 
 + Nhân với 1, nhân với 0. 
 + 0 chia cho một số bất kì,.. 
 *Chia một tổng cho một số. 
 *Chia một hiệu cho một số.... 
 Việc ôn lại một số tính chất cơ bản này giúp học sinh có thao tác, kĩ năng tính 
đúng, tính nhanh. 
 Giải pháp 3. Hướng dẫn học sinh thực hiện phép chia. 
 Khi học sinh đã nắm được một số yêu cầu cơ bản trên, giáo viên Hướng dẫn 
học sinh làm một số bài tập đơn giản nhưng cơ bản làm cơ sở ban đầu cho phép chia 
ngoài bảng. 
 Bài 1: (dạng 1). 
 3: 3 = 9: 4 = 5: 3 = 7: 4 = 
 4: 3 = 8: 4 = 6: 3 = 4: 4 = 
 Học sinh dễ dàng làm các phép tính trên. 
 Cũng với bài tập trên, yêu cầu học sinh đặt tính rồi tính. 
 6 
 17: 5 = 3 (dư 2) 
 18: 5 = 3 (dư 3) 
 19: 5 = 3 (dư 4) 
 42 chia 7 bằng 6; 35 chia 7 bằng 5. Vậy các số từ 36 đến 41 chia cho 7 đều 
bằng 5 và có dư. 
 40: 7 = 5 (dư 5) 
 39: 7 = 5 (dư 4) 
 36: 7 = 5 (dư 1) 
 Yêu cầu học sinh đặt tính rồi tính: 
 Giáo viên hướng dẫn một số phép tính: 
 15 5 Bước 1: 15 chia 5 được 3, viết 3 
 15 3 Bước 2: 3 nhân 5 bằng 15. 
 0 Bước 3: 15 trừ 15 bằng 0. 
 16 5 Bước 1: 16 chia 5 được 3, viết 3 
 15 3 Bước 2: 3 nhân 5 bằng 15. 
 1 Bước 3: 16 trừ 15 bằng 1 
 Vậy thương là 3, số dư là 1. 
 Giáo viên cho học sinh thực hiện ở bảng con với các phép tính còn lại. 
 Giáo viên sửa sai và uốn nắn học sinh kịp thời: Em nào thực hiện sai yêu cầu 
thực hiện lại. 
 20 5 42 7 40 7 36 7 35 7 
 20 4 42 6 35 5(dư 5) 35 5(dư 1) 35 5 
 5 1 0 
 Khi học sinh đã làm thành thạo các bài tập dạng trên, nắm vững các thao tác 
thực hiện phép chia. Giáo viên cho học sinh vận dụng với các bài tập có số bị chia 
lớn hơn. 
 Ví dụ 48 4 
 8 
 Ví dụ 3: 72: 9 79: 9 647: 3 
 72 9 79 9 647 3 
 72 8 72 8 (dư 7) 04 215(dư 2) 
 0 7 17 
 2 
 Với dạng bài tập thương có chữ 0, giáo viên cũng đi từ phép chia đơn giản, từ 
số bị chia có 2 chữ số đến số bị chia có 3, 4, 5 chữ số. 
 Cho học sinh nhắc lại: 0 chia cho số nào cũng bằng 0. 
 0 nhân số nào cũng bằng 0. 
Ví dụ: 
 0: 9 = 0 
 1: 9 = 0 (dư 1). 
 4: 9 = 0 (dư 4). 
 7: 9 = 0 (dư 7). 
 8: 9 = 0 (dư 8). 
 5: 7 = 0 (dư 5). 
 6: 8 = 0 (dư 6). 
 Sách giáo khoa sinh vận dụng vào bài tập: 
 62: 3 = 816: 4 = 9182: 9 = 
 62 3 816 4 9182 9 
 02 20(dư 2) 016 208 018 1020 (dư 2) 
 0 0 02 
 2 0 
 2 
 GIAI ĐOẠN 2 
 DẠY PHÉP CHIA CHO SỐ CÓ 1; 2 CHỮ SỐ LỚP 4. 
Giải pháp 1: Dạy chia cho số có 2 chữ số dựa trên phép chia có 1 chữ số: 
 + Kế thừa: Học sinh biết cách đặt phép tính, cách thực hiện phép tính. 
 + Cách dạy: Cho học sinh thực hành, luyện tập là cơ bản. 
 Cụ thể: Giáo viên đưa bài tính: Ví dụ: 128472: 6 =? 
 * Số bị chia có số 6 chữ số. 
 10 
 Gợi ý học sinh phân tích: Ở lượt lấy là 9 không lấy 8 nếu chọn thương là 8 thì số 
dư lớn hơn số chia; nếu lấy thương lớn hơn 9 thì số chia lớn hơn số bị chia. Học sinh 
tiếp tục chia đến hết. 
 => Chia hết là trường hợp chia có số dư là mấy? (bằng 0). 
 Số dư lớn nhất có thể có được trong phép chia khi số dư bằng mấy? (Bằng số 
chia trừ đi 1). 
 Ở phép chia trên ta đọc như thế nào khi giáo viên viết: 
 475908 = 95181 x 5 + 3 
 Đa số học sinh đọc như sau: 475908 chia cho 5 95181 được 5 dư 3. 
 Giáo viên cho học sinh nhận diện lại tên gọi từ phép chia và đọc: 
 475908 chia 5 được 95181 dư 3. 
Giải pháp 2: Dạy chia cho số 2 chữ số dựa trên ước lượng thương: 
 Việc rèn kĩ năng ước lượng thương là cả một quá trình. Thực tế của vấn đề này là 
tìm cách nhẩm nhanh thương của phép chia. Để làm việc này, ta thường cho học sinh 
làm tròn số bị chia và số chia để dự đoán chữ số ấy. Sau đó nhân lại để thử. Nếu tích 
vượt quá số bị chia thì phải rút bớt chữ số đã dự đoán ở thương, nếu tích còn kém số 
bị chia quá nhiều thì phải tăng chữ ở thương. Như vậy, muốn ước lượng thương cho 
tốt, học sinh phải thuộc các bảng nhân chia và biết nhân nhẩm trừ nhẩm nhanh. Bên 
cạnh đó, các em cũng phải biết cách làm tròn số thông qua một số thủ thuật thường 
dùng qua bài Làm tròn số ở lớp 3 và lớp 4. Cách làm như sau: 
 a) Làm tròn giảm: 
 Nếu số chia tận cùng là 1;2;3;4 hoặc 5 thì ta làm tròn giảm (tức là bớt đi 1;2; 
hoặc 5 đơn vị ở số chia) . Trong thực hành, ta chỉ việc che bớt chữ số tận cùng đó đi 
(và cũng phải che bớt chữ số tận cùng của số bị chia) 
 Ví dụ 1: 
 Muốn ước lượng 92: 23 =? Ta làm tròn 92 90; 23 20; 90 chia 20 rồi nhẩm 
9: 2 = 4, sau đó thử lại: 23 x 4 = 92 để có kết quả 92: 23 = 4 
 b) Làm tròn tăng: 
 Nếu số chia tận cùng là 7;8 hoặc 9 thì ta làm tròn tăng (tức là thêm 3;2 hoặc 1 đơn 
vị vào số chia hặc là số bị chia) trong thực hành, ta chỉ việc thêm 3 ;2 hoặc1 vào chữ 
số liền sau. Từ đó ta có số tròn chục để ước lượng 
 12 
 Bước 2 
 Kết quả của phép nhân úc báy giờ là: 4x14=56<57 nên kết quả này được chấp 
nhận –Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi thực hiện phép tính này. 
 Chú ý: 
 Trên thực tế việc làm việc chia cho số có hai, ba,.. được tiến hành bằng thủ thuật 
cùng che bớt hai chữ số 2 và 3 ở hàng đơn vị để có 9 chia 2 được 4 chứ ít khi viết rõ 
như ở (A) 
 Nếu đặt tính ta minh họa các bước như sau: 
 Bước 1 Bước 2 Bước 3 
 92 23 9 2 92 23 
 4 92 4 
 00 
 Chú giải: - Nam châm dùng để che lại số 0 ở số bị chia và số chia. 
 - Ở bước 2: Dùng nam châm để che lại số 0 ở hàng đơn vị của số 
chia và số bị chia. 
 - Bước ba: Khi nhân kết quả ước lượng với số chia ta phải tháo bỏ 
nam châm. 
 - Phương pháp ước lượng thương cụ thể hóa chỉ vận dụng đối với HS thật sự quá 
yếu. Nếu vận dụng một cách tràng lan dẫn đến lạm dụng, tiêu cực đối với HS có khả 
năng ước lượng thương đạt từ trung bình trở lên – thời điểm vận dụng tốt nhất là phụ 
đạo riêng HS yếu, kém. 
 Trong thực tế, các việc làm trên được tiến hành trong sơ đồ của thuật tính chia 
(viết) với các phép thử thông qua nhân nhẩm và trừ nhẩm. Nếu học sinh chưa nhân 
nhẩm và trừ nhẩm thành thạo thì lúc đầu có thể cho các em làm tính vào nháp, hoặc 
viết bằng bút chì, nếu sai thì tẩy đi rồi điều chỉnh lại. 
 Để việc làm tròn số được đơn giản, ta cũng có thể chỉ yêu cầu học sinh làm tròn 
số chia theo đúng quy tắc làm tròn số 
Giải pháp 3. Vận dụng vào thực tiễn. 
 Sau khi các em đã nắm được cách ước lượng thương, bên cạnh những bài củng 
cố sau mỗi ví dụ đã hướng dẫn ngay tại tiết dạy theo chương trình vào buổi học chính 
khóa. Tôi đã cho các em tiếp tục luyện tập bằng những bài tập luyện tập thêm vào 
 14 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_chia_cho_hoc_sinh_chua_dat.pdf