Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2 - Bộ sách Kết nối tri thức

Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, dạy Tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan trọng là dạy các em sử dụng lời nói tình cảm trong giao tiếp. Nếu một người đọc thông, viết thạo tất cả các văn bản, có tài, có trình độ song khi nói trước tập thể thì sợ sệt, nhút nhát hoặc khi giao tiếp không gây được tình cảm, mối thân thiện với mọi người, để lại ấn tượng không tốt thì người đó khó mà thành công trong công việc.

Hơn nữa, hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh. Theo tôi môn Tiếng Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác trong luyện tập để rút kinh nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. Vì vậy theo tôi nhận thấy “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” là điều hết sức cần thiết và quan trọng.

Căn cứ vào thực tế lớp 2 tôi đang dạy, các em cũng gặp những khó khăn nhất định về ngôn ngữ giao tiếp như đã nêu ở trên. Chính vì vậy ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp, bản thân đã lựa chọn và nghiên cứu những kinh nghiệm giảng dạy môn Tiếng Việt qua việc “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình.

doc 19 trang Thanh Ngân 08/11/2024 790
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2 - Bộ sách Kết nối tri thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2 - Bộ sách Kết nối tri thức

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2 - Bộ sách Kết nối tri thức
 I. ĐẶT VẤN ĐỀ
 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 1.1 Cơ sở lí luận
 Trải qua hàng ngàn tiến hóa của loài người, ngôn ngữ nói có tác dụng sơ 
khai là trao đổi thông tin và đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lí và 
là một yếu tố quan trọng để biểu lộ văn hóa, tính cách con người. Việc Giáo dục 
lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng: “Học ăn, học nói, 
học gói, học mở”.
 Mặt khác, như chúng ta đều biết, ngay từ những ngày đầu tiên trẻ cắp 
sách tới trường, trẻ đã được giáo dục đạo đức, giáo dục ăn nói lễ phép theo 
phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn”. Do vậy, từ các lớp đầu cấp Tiểu học 
chúng ta cần rèn cho trẻ biết nói năng lễ phép, lịch sự, biết nói lời biểu cảm 
trong giao tiếp. Không những thế mà chúng ta cần rèn cho trẻ mạnh dạn, tự tin 
khi giao tiếp với mọi người và khi nói trước tập thể đông người.
 Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao 
đổi thông tin, đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hóa, tính 
nết của con người. Do vậy cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay 
từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để sau này các em có thói quen cư xử đúng 
mực, lịch sự trong khi giao tiếp.
 Việc giáo dục lời nói từ xa xưa ông bà ta rất chú trọng. Ông cha ta thường 
dạy con, cháu qua các câu ca dao, tục ngữ như:
 “Học ăn, học nói, học gói, học mở”
 “Lời nói không mất tiền mua
 Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
 Có thể thấy việc giao tiếp ứng xử khéo léo cũng giúp ta thành công trong 
nhiều lĩnh vực và trong công việc.
 1.2 Cơ sở thực tiễn
 Trong những năm qua, trên tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, 
dạy Tiếng Việt không chỉ dạy cho các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà điều quan Ngoài việc học hỏi những kinh nghiệm của đồng nghiệp bản thân còn sử 
dụng những phương pháp sau:
 * Phương pháp quan sát:
 Quan sát việc thực hành luyện nói của học sinh trong tất cả các tiết học 
Tiếng Việt ở trên lớp, quan sát lời nói của học sinh với bạn bè và mọi người 
xung quanh ở mọi nơi, mọi lúc.
 * Phương pháp phân tích tổng hợp:
 Sử dụng phương pháp này nhằm theo dõi khả năng luyện nói, giao tiếp 
của học sinh, từ đó thu thập và xử lí những thông tin để phân tích, tổng hợp. Với 
việc làm như vậy sẽ đánh giá, nhận xét học sinh một cách sát thực và cụ thể 
hơn.
 * Phương pháp thực hành luyện tập:
 Sử dụng phương pháp này giúp học sinh thường xuyên được thực hành 
luyện nói trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Rèn cho các em kĩ năng nói trôi 
chảy, mạch lạc, lời nói thể hiện tình cảm và lịch sự.
 5. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2.
 Nội dung nghiên cứu: Khả năng diễn đạt và dùng từ ngữ của học sinh.
 6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
 Nghiên cứu thực trạng hiện nay trẻ lớp 2 có kiến thức và ý thức như thế 
nào trong giao tiếp hằng ngày, những quan điểm, nhận thức mà trẻ bộc lộ lời 
nói, lời phát biểu, trả lời nội dung bài học và sự giao tiếp với bạn bè, thầy cô ở 
trường và giao tiếp với mọi người xung quanh.
 Bản thân đưa ra những giải pháp nhằm rèn luyện cho các em kĩ năng sử 
dụng từ ngữ đúng nhằm phát triển khả năng diễn đạt của các em. Khả năng Số học sinh Tỷ lệ %
 Nói tốt 10 HS 32,3 %
 Tạm được 16 HS 51,6 %
 Chưa được 5 HS 16,1 %
 Sau khi nắm được đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học 
sinh bản thân tiến hành sắp xếp chỗ ngồi của học sinh sao cho phù hợp. Học 
sinh được phân bố đều khắp 3 đối tượng nói trên vào các nhóm, các tổ và ngồi 
hợp lí theo từng bàn.
 Trong các giờ học luyện nói, các em giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình học 
tập. Những em mạnh dạn, nói lưu loát, có lời nói biểu cảm trong giao tiếp giúp 
đỡ những em nhút nhát, giao tiếp kém, ngại giao tiếp dần dần mạnh dạn hơn 
trong giao tiếp và biết nói năng lịch sự, tình cảm khi giao tiếp. Từ đó rèn cho 
các em có lời nói lưu loát, mạch lạc. Sự giúp đỡ, cổ vũ, động viên của các bạn 
trong tổ, trong nhóm giúp các em nạnh dạn, năng động và tự tin hơn trong quá 
trình rèn nói và trước lời phát biểu của mình. Tạo cho các em sự hưng phấn và 
cố gắng nhiều trong học tập.
 Khi các em nhút nhát, giao tiếp kém có sự tiến bộ tôi sẽ phân cho các em 
đó làm nhóm trưởng trong các giờ học luyện nói của môn Tiếng Việt. Để các 
em phát huy được khả năng của mình, mạnh dạn nói trước tập thể và biết nói 
biểu cảm và nói lịch sự. 
 2. CÁC PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN
 2.1. Phương pháp quan sát
 Phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu giáo dục. 
Nhằm quan sát giờ dạy của giáo viên và việc học tập của học sinh trên lớp. 
Đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua những lời phát biểu của học 
sinh trong giờ luyện nói của mỗi tiết học, qua lời nói của học sinh với mọi 
người xung quanh mọi nơi, mọi lúc, qua các bài tập thực hành trong vở bài tập 
Tiếng Việt. 2.3 Phương pháp thực hành luyện tập
 Với phương pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện tập 
“nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Nhờ đó, khả năng giao tiếp các em 
ngày được nâng cao và hoàn thiện hơn. Việc “nói” sao cho trôi chảy, mạch lạc, 
lời văn thể hiện biểu cảm rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác 
khả năng học tập của học sinh.
 Biện pháp thực hiện:
 Học sinh được rèn kĩ năng nói qua các bài tập thực hành trong SGK 
Tiếng Việt 2 – bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống.
 * Bài tập rèn luyện cho học sinh phát âm theo chuẩn.
 Ở bài tập này tôi thường chú ý đến những đối tượng học sinh phát âm 
chưa chuẩn các tiếng, từ khó trong phần rèn đọc từ khó trong phần luyện đọc ở 
tiết 1.
 Rèn cho các em phát âm chưa chuẩn, các em biết phát âm chuẩn, chính 
xác từ đó các em đủ tự tin phát biểu ý kiến và lời nói trong giờ luyện nói. Để 
các em phát âm đúng và chính xác bản thân lựa chọn các loại âm, vần mà các 
em thường phát âm sai do tiếng địa phương. Điều quan trọng là giáo viên phải 
phát âm chuẩn và chính xác.
 Đối với học sinh lớp 2 là lớp tôi đang chủ nhiệm, đa số các em phát âm 
sai âm x/s, âm d/gi, âm l/n, một số em ngọng các vần ên/ênh, vần an/ang, vần 
ân/âng, 
 Do vậy trong tiết Tập Đọc tôi luôn lựa chọn những từ có âm đầu và từ 
ngữ có chứa dấu các âm, vần dễ lẫn để học sinh luyện phát âm. Để tạo sự hứng 
thú trong học tập tôi đã áp dụng những trò chơi vào các tiết học giúp học sinh 
vừa học vừa chơi tạo được sự thoải mái trong học tập nhưng đạt kết quả cao.
 Trò chơi 1: Thi đọc đúng, đọc nhanh.
 Tôi đã cho các em chuẩn bị mỗi em tự nghĩ hoặc sưu tầm một số câu thơ, 
câu văn có những cặp âm đầu, vần, dấu thanh dễ lẫn lộn ghi vào vở nháp theo 
yêu cầu của giáo viên. Nhóm 1: tìm các câu thơ hay câu văn có âm đầu là s/x, Cho Dê đi học.
 c. Phân biệt l/n:
 - Lên non mới biết non cao
 Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.
 - Lúa nếp là lúa nếp làng
 Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng.
 * Ví dụ 2: Đọc phân biệt các tiếng có vần dễ lẫn
 a. Phân biệt vần ên/ênh:
 - Cái gì cao lớn lênh khênh
 Đứng mà không tựa ngã kềnh ngay ra
 - Tò vò mà nuôi con nhện
 Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi
 Tò vò ngồi khóc tỉ ti
 Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đằng nào?
 b. Phân biệt vần an/ang:
 Một năm trời hạn hán
 Suối cạn, cỏ héo khô
 Lấy gì nuôi đôi bạn
 Chờ mưa đến bao giờ
 Bê Vàng đi tìm cỏ
 Lang thang quên đường về
 Dê Trắng thương bạn quá
 Chạy khắp nẻo tìm Bê.
 c. Phân biệt ươn/ương:
 Cá không ăn muối cá ươn
 Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
 * Ví dụ 3: Loại bài tập xử lý tình huống
 Loại bài tập này giúp các em phát triển ngôn ngữ nói, luyện tập cho học 
sinh các nghi thức lời nói. Trong các phần luyện nói ở các bài Tập đọc, kể tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt quá!”. Bạn trai cười tươi và nói: 
“Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”.
 Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, cả lớp cùng 
bình chọn lời nói đúng, hay và tìm các câu nói khác biểu đạt nội dung đó. Nếu 
một vai nói đúng 1 câu sẽ được 1 điểm, nói đúng 2 câu sẽ được 2 điểm. Tổng số 
điểm của hai vai là số điểm của mỗi nhóm trong từng tình huống chơi.
 Sau mỗi tình huống, giáo viên ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi 
các nhóm đã chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì giáo viên cộng điểm và 
công bố nhóm có điểm cao nhất để khen thưởng.
 * Ví dụ 4: Loại bài tập kể chuyện
 Học sinh kể chuyện đã đọc, đã nghe, kể về những người xung quanh hoặc 
bản thân.
 Bài tập này áp dụng ở môn Tiếng Việt trong bài có nội dung kể chuyện, 
cần hướng dẫn học sinh có giọng kể thích hợp và diễn xuất theo vai, học sinh 
nắm nội dung câu chuyện định kể.
 *Ví dụ 5: Phân vai dựng lại câu chuyện
 Giáo viên chọn bài tập ở tiết Kể chuyện, yêu cầu học sinh phân vai dựng 
lại câu chuyện trong SGK Tiếng việt 2 – bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống.
 Ví dụ: Chuyện bốn mùa (SGK Tiếng Việt 2 tập 2 trang 11).
 Giáo viên hướng dẫn học sinh dựng lại câu chuyện, học sinh nhập vai và 
khi kể giọng kể và diễn xuất phải phù hợp với nhân vật. Lời dẫn trong ngoặc 
đơn nhằm gợi ý thái độ, hành động, cử chỉ của nhân vật (người dẫn truyện, 
Xuân, Hạ, Thu, Đông, Bà Đất).
 Chuẩn bị một số đồ vật cho các vai diễn xuất. Một vòng hoa cho nàng 
Xuân, quạt cho nàng Hạ, mâm quả cho nàng Thu, áo ấm khăn ấm cho nàng 
Đông, trang phục cho Bà Đất.
 Cách tiến hành cho học sinh nhập vai học thuộc lời thoại, nắm vững cách 
thể hiện tình cảm, thái độ, cử chỉ, giọng nói của từng nhân vật.
 Giáo viên hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật. Bạn trai tay ôm quả bóng, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ Đội vô địch; 
một bạn đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô địch.
 Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng bạn trai 
là tiêu đề cuộc thi: Thi kể chuyện đạo đức về Bác Hồ. Một bạn mang hoa lên 
tặng bạn trai được giải và nói lời chúc mừng.
 5 chiếc mũ làm bằng dải bìa quây tròn, trên có điểm 10 và chữ KC (kể 
chuyện)
 Cách tiến hành:
 - Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 
em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh họa trong tranh.
 - Cứ tiếp tục như vậy, các nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình 
huống đầu cho đến tình huống cuối như đã gợi ý. Khi hai học sinh trong nhóm 
chơi xong ở tình huống đầu thì nhóm lại cử hai học sinh chơi ở tình huống tiếp 
theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở cả ba tình huống. Giáo viên làm trọng 
tài, 2 học sinh giúp giáo viên làm việc.
 2.4 Phương pháp kết hợp với phụ huynh học sinh
 Ngoài việc rèn luyện cho các em trong các tiết học luyện nói của môn 
Tiếng Việt trên lớp, bản thân thường xuyên gặp gỡ phụ huynh học sinh để trao 
đổi những tiến bộ và những hạn chế của các em. Bàn bạc tìm ra những biện 
pháp thích hợp để phụ huynh bày vẻ và rèn cho học sinh biết giao tiếp lịch sự, 
đúng mực khi ở nhà. Biện pháp này được phụ huynh đồng tình ủng hộ và đem 
lại hiệu quả rất cao.
 3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 Bảng thống kê khả năng nói- giao tiếp của học sinh lớp 2B cuối học kì II 
năm học 2023-2024.
 Khả năng nói
 Sĩ số Nói tốt Tạm được Chưa được 
 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Trong năm học này, bằng các biện pháp nói trên, bản thân đã tổ chức cho 
học sinh trong lớp thực hiện tốt những yêu cầu luyện nói đã đề ra, làm cho các 
buổi học đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Những học sinh chưa mạnh dạn, thiếu 
tự tin khi giao tiếp với mọi người và khi nói trước tập thể đông người ngày một 
giảm.
 Từ những học sinh khả năng nói chưa tốt, bây giờ các em đã có nhiều tiến 
bộ về mọi mặt. Kết quả học tập các môn có sự thay đổi rõ rệt. Nhiều học sinh đã 
chủ động, tích cực, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Việc học bài và 
chuẩn bị bài ở nhà được các em thực hiện đầy đủ.
 Trong tất cả các giờ học và giờ luyện nói trên lớp học sinh đã biết trả lời 
các câu hỏi của bạn mình và của giáo viên với nội dung đầy đủ, trọn vẹn. Các 
em biết trả lời một cách rõ ràng, trọn câu, trôi chảy, mạch lạc. Học sinh tự tin, 
cởi mở khi giao tiếp với bạn bè trong lớp, trong trường, không còn rụt rè hay 
nhút nhát và trả lời không đủ ý như lúc đầu năm học.
 Đa số học sinh trong lớp 2B đến thời điểm này đều có khả năng giao tiếp 
với bạn bè ở lớp, ở trường và mọi người xung quanh rất tốt. Cụ thể như: Các em 
đều biết sử dụng lời nói biểu cảm khi giao tiếp để bày tỏ lịch sự, lễ phép của 
mình. Các em biết giao tiếp lễ phép, lịch sự với thầy cô giáo, các cô chú công 
nhân viên trong nhà trường, biết cư xử đúng mực.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_noi_trong_gio_day_tieng_vi.doc