Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản cho học sinh Lớp 6, 7 (bộ sách Kết nối tri thức)
Trong hơn hai năm trở lại đây, khi chương trình GDPT 2018 được triển khai ở bậc THCS thì đề kiểm tra giữa kì và cuối kì môn Ngữ văn đã có sự thay đổi mạnh mẽ với hai phần: đọc hiểu và làm văn. Trong đó, phần đọc hiểu văn bản chiếm một tỉ lệ điểm khá lớn (50 - 60% số điểm). Dạy học đọc hiểu theo yêu cầu thể loại và kiểu văn bản là hướng tới phát triển năng lực đọc (NL ngôn ngữ) và năng lực thưởng thức, cảm thụ văn học (NL văn học). Thông qua nội dung của các văn bản – tác phẩm được dạy mà giáo dục tư tưởng, nhân cách học sinh; đấy chính là góp phần phát triển phẩm chất.
Ngoài văn bản đã được học trong chương trình, đề kiểm tra cũng hướng tới các văn bản ngữ liệu ngoài chương trình sách giáo khoa có cùng đặc trưng thể loại. Đây là phần được đưa vào trong các bài kiểm tra giữa học kì, kiểm tra cuối học kì nhằm đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh. Hiện nay, việc đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh dựa trên yêu cầu học sinh vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã có vào việc đọc hiểu và cảm thụ văn bản. Như vậy, thầy cô không thể giúp các em đọc hộ, cảm hộ, hiểu hộ như trước đây nữa mà các em phải tự mình khám phá, tìm hiểu văn bản. Chính vì vậy, học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi làm bài. Bên cạnh đó, trong sách giáo khoa, sách bài tập, sách tham khảo đều không có các dạng bài này. Các em không biết phải bắt đầu từ đâu, trình bày bài như thế nào, vận dụng những kiến thức gì... nhất là đối với học sinh có học lực trung bình, yếu. Còn đối với học sinh khá giỏi, đây là một trong những dạng bài phát huy được khả năng cảm thụ văn học của các em. Các em rất hứng thú khi được tìm hiểu, khám phá nhiều văn bản mới không có trong chương trình và sách giáo khoa. Từ đó các em lĩnh hội được nhiều kiến thức bổ ích, nhiều bài học có giá trị nhân văn sâu sắc.
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy năng lực cảm thụ, đọc hiểu văn bản của học sinh còn rất hạn chế nhất là với học sinh lớp 6. Các em mới chuyển cấp từ môi trường tiểu học lên THCS còn nhiều bỡ ngỡ, chưa được quen với cách học của bậc THCS đặc biệt trong môn Ngữ văn ( Tiểu học là môn Tiếng việt). Trong các giờ dạy học đọc hiểu văn bản, học sinh thường nghe và ghi chép lại bài giảng của giáo viên chứ chưa tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản. Do áp lực thi cử, tình trạng thầy cô đọc hộ, hiểu hộ, cảm thụ hộ học sinh diễn ra khá phổ biến. Chính vì thể, để làm được dạng bài này học sinh phải có một năng lực đọc hiểu văn bản nhất định trên một nền tảng kiến thức cơ bản. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu một số biện pháp để “Rèn kỹ năng làm bài đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 6, 7”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản cho học sinh Lớp 6, 7 (bộ sách Kết nối tri thức)
quen với cách học của bậc THCS đặc biệt trong môn Ngữ văn ( Tiểu học là môn
Tiếng việt). Trong các giờ dạy học đọc hiểu văn bản, học sinh thường nghe và
ghi chép lại bài giảng của giáo viên chứ chưa tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám
phá văn bản. Do áp lực thi cử, tình trạng thầy cô đọc hộ, hiểu hộ, cảm thụ hộ học
sinh diễn ra khá phổ biến. Chính vì thể, để làm được dạng bài này học sinh phải
có một năng lực đọc hiểu văn bản nhất định trên một nền tảng kiến thức cơ bản.
Vì vậy, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu một số biện pháp để “Rèn kỹ năng làm bài
đọc hiểu văn bản cho học sinh lớp 6, 7”.
2. Mục đích
Nghiên cứu đề tài này, tôi muốn đưa ra phương pháp hướng dẫn học sinh làm
tốt phần đọc hiểu văn bản để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn, đặc biệt là nâng
cao chất lượng thi vào lớp 10 Trung học phổ thông.
3. Phạm vi đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi: học sinh lớp 6,7
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: kĩ năng làm bài đọc hiểu văn bản
cho học sinh lớp 6,7 bậc Trung học cơ sở.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lí thuyết;
- Phương pháp thực nghiệm;
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh;
- Tổng hợp, rút kinh nghiệm.
2/20 3.Nội dung câu hỏi và bài tập đọc hiểu văn bản thường gặp
Trong đề kiểm tra Ngữ văn phần đọc hiểu văn bản chủ yếu sử dụng bài tập
trắc nghiệm và câu hỏi tự luận. Do đó học sinh cần đọc kĩ câu hỏi, bài tập và lựa
chọn nội dung trả lời, cách diễn đạt đúng với yêu cầu. Nội dung các câu hỏi và
các bài tập đọc hiểu văn bản thường hướng vào các vấn đề sau:
- Nội dung của văn bản, đoạn văn
- Những vấn đề về hình thức, nghệ thuật của văn bản như: Bố cục văn bản, các
phương thức biểu đạt, các biện pháp tu từ, hình ảnh, chi tiết, từ ngữ, liên kết câu,
kiểu câu.
Câu hỏi và các bài tập đọc hiểu văn bản thường hướng vào đánh giá năng lực
học sinh theo các mức độ: Nhận biết, thông hiểu và vận dụng
* Mức độ nhận biết: Thường hướng vào các vấn đề về thể loại, đề tài, phương
thức biểu đạt, các biện pháp tu từ, hình ảnh, chi tiết, thông tin trực tiếp của văn
bản.
* Mức độ thông hiểu: Thường hướng vào các vấn đề: Nêu nội dung chính của
văn bản, lí giải nội dung văn bản, ý nghĩa của các biện pháp tu từ, chi tiết quan
trọng trong văn bản
* Mức độ vận dụng: Hướng vào các vấn đề: Đánh giá hình thức, nội dung của
văn bản, vận dụng ý nghĩa hoặc rút ra bài học từ văn bản để giải quyết các tình
huống thực tiễn.
II. Thực trạng của vấn đề:
Dạng bài đọc hiểu văn bản là một dạng bài mới trong các đề kiểm tra, đề thi
trong những năm gần đây. Phần đọc hiểu thường xoay quanh nhiều vấn đề với rất
nhiều câu hỏi phong phú và đa dạng nhưng trong sách giáo khoa Ngữ văn và
sách bài tập Ngữ văn không có những dạng bài tập cụ thể. Chính vì vậy đòi hỏi
người giáo viên phải tự tìm tòi, nghiên cứu trong rất nhiều tài liệu, sắp xếp theo
từng chủ đề, từng dạng, theo từng mức độ để cung cấp cho học sinh. Bài đọc hiểu
cần tập trung vào đặc trưng thể loại.
4/20 2. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc hiểu cụ thể:
2.1. Biện pháp 1: Rèn cho học sinh kỹ năng phân tích cấu trúc, phạm vi, yêu
cầu của đề
Để làm tốt phần đọc hiểu ngữ liệu mở, đòi hỏi học sinh cần có kĩ năng và
kiến thức để phân tích được cấu trúc, phạm vi và yêu cầu của đề. Cụ thể:
* Cấu trúc của phần đọc hiểu
Cấu trúc của dạng bài đọc hiểu gồm hai phần:
- Phần 1: Ngữ liệu trong hoặc ngoài chương trình và sách giáo khoa (đoạn văn,
đoạn thơ, bài thơ ngắn, mẩu truyện...). Nhưng xu hướng sẽ là một văn bản mới
hoàn toàn, không có trong chương trình và sách giáo khoa.
- Phần 2: Thực hiện trả lời yêu cầu với các câu hỏi dựa trên chuẩn kiến thức và kĩ
năng hiện hành, mức độ từ đễ đến khó. (thông thường từ 8 – 10 câu trắc nghiệm
và 2 - 3 câu tự luận)
* Phạm vi của phần đọc hiểu
+ Văn bản trong chương trình (Nghiêng nhiều về các văn bản đọc thêm, ngữ liệu
trong các bài tiếng Việt, phần viết)
+ Văn bản ngoài chương trình (Các văn bản cùng thể loại với các văn bản được
học trong chương trình).
* Yêu cầu cơ bản của phần đọc hiểu
- Nhận biết về kiểu (loại), phương thức biểu đạt, cách sử dụng từ ngữ, câu văn,
hình ảnh, các biện pháp tu từ,...
- Hiểu đặc điểm thể loại, phương thức biểu đạt, ý nghĩa của việc sử dụng từ ngữ,
câu văn, hình ảnh, biện pháp tu từ, liên kết trong đoạn văn bản
- Hiểu nghĩa của một số từ trong văn bản.
- Khái quát được nội dung cơ bản của văn bản, đoạn văn.
- Bày tỏ suy nghĩ, rút ra bài học, liên hệ bản thânbằng một đoạn văn ngắn (độ
dài từ 5 đến 7 câu)
2.2. Biện pháp 2: Chuẩn bị những kiến thức cần có để thực hiện việc đọc hiểu
văn bản
6/20 * Khi làm bài đọc hiểu văn bản truyện ngắn, học sinh cần nắm được đặc trưng
thể loại truyện ngắn như:
+ Nhận biết được các yếu tố của truyện (ngôi kể, các nhân vật trong truyện, cốt
truyện, lời người kể chuyện, lời nhân vật)
+ Đề tài, nội dung của truyện.
+ Truyện mang đến cho người đọc những nhận thức gì, những hiểu biết gì về
cuộc sống.
+ Xác định tính cách nhân vật trong truyện ngắn thể hiện qua hình dáng, cử chỉ,
hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ, tính cách của nhân vật, qua nhận xét của nhân
vật khác trong truyện.
+ Truyện mang lại thông điệp gì cho người đọc.
- Kiến thức về kiểu câu, liên kết câu, từ ngữ, thành phần câu
- Kiến thức trình bày đoạn văn hoặc chuỗi câu
Khi củng cố cho học sinh những kiến thức đó, giáo viên phải làm sao cho
học
sinh ghi nhớ một cách bản chất, tránh việc ghi nhớ kiến thức lí thuyết quá nhiều
mà không hiểu được bản chất.
2.3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng phân tích, nhận định các dạng câu hỏi đọc hiểu
Các đạng câu hỏi chủ yếu sử dụng trong đánh giá năng lực đọc hiểu của
học sinh thường có hai dạng:
Dạng 1: Câu hỏi trắc nghiệm (Học sinh lựa chọn đáp án đúng nhất)
Dạng 2: Câu hỏi trả lời ngắn
- Là dạng câu hỏi học sinh phải viết câu trả lời dựa trên yêu cầu của câu hỏi một
cách ngắn gọn, chính xác. Nội dung các câu hỏi độc lập, câu trên không gợi ý cho
câu dưới. Dạng câu hỏi này thường được sử dụng chủ yếu trong các đề kiểm tra.
- Có hai dạng câu hỏi trả lời ngắn:
+ Câu hỏi đóng: là cầu hỏi được giới hạn rõ/ có một đáp án, thể hiện cách hiểu
chính xác về văn bản.
8/20 Câu 3: Nhân vật chính trong văn bản trên là ai?
A. Thỏ B. Khỉ C. Thỏ và khỉ D. Sói
Câu 4: Biện pháp tu từ chủ yếu được dùng trong văn bản là:
A. Nhân hóa. B. So sánh.
C. Điệp ngữ. D. Ẩn dụ.
Câu 5: Chi tiết “thỏ chạy đi báo cảnh sát” thể hiện phẩm chất gì của thỏ?
A. Gan dạ, dũng cảm B. Thông minh, nhanh trí
C. Năng động, hoạt bát D. Nhiệt tình, chăm chỉ
Câu 6: Đoạn trích thể hiện tình cảm, cảm xúc gì của tác giả đối với loài vật?
A. khen ngợi B. quan tâm C. tự hào D. trân trọng
Câu 7: Câu nào sau đây nói đúng chủ đề của đoạn trích?
A. Đoạn trích ca ngợi sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống.
B. Đoạn trích ca ngợi tình cảm của khỉ với gà.
C. Đoạn trích ca ngợi tinh thần đoàn kết của thỏ, khỉ, dê và gà.
D. Đoạn trích ca ngợi sự thông minh, nhanh trí của thỏ.
Câu 8: Theo em, có nên hành động như nhân vật khỉ khi đương đầu với sói
không? Vì sao?
Câu 9: Qua việc làm của thỏ em rút ra được bài học gì? (Hãy trình bày trong
khoảng 3 – 5 câu văn.)
Với bài tập này, để trả lời đúng được các câu hỏi thì đòi hỏi học sinh phải
có kiến thức thể loại truyện nói chung và truyện ngụ ngôn nói riêng. Học sinh cần
nắm được các đặc trưng của truyện ngụ ngôn như:
+ Nhận biết được một số yếu tố hình thức (sự kiện, tình huống, cốt truyện, nhân
vật, bối cảnh không gian và thời gian, ngôn ngữ) và nội dung ( đề tài, chủ đề,
ý nghĩa) của truyện ngụ ngôn.
+ Từ câu chuyện, liên hệ với bản thân, với cuộc sống hiện tại.
2.4. Biện pháp 4: Rèn kĩ năng đọc
10/20 thức biểu đạt hoặc những phương thức biểu đạt thì có thể trả lời nhiều phương
thức.
- Nhận biết về nội dung: chi tiết, hình ảnh, sự kiện, vấn đề, thông tin... được thể
hiện, phản ánh trực tiếp trong văn bản.
+ Câu hỏi thường có các từ để hỏi như: “chỉ ra, hãy nêu, là gì...”
+ Cách trả lời: tìm thông tin được đề cập trong câu hỏi -> ghi nội dung trả lời
ngắn gọn, chính xác. (Phải ghi được ít nhất từ 2 thông tin trở lên).
Ví dụ minh họa :
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 3
Hai người bạn đồng hành và con gấu
Có hai người bạn đương1 đi trong rừng thì một chú gấu nhảy ra vồ. Tình cờ,
người đi trước túm được một cành cây và ẩn mình trong đám lá. Người kia không
biết trông cậy vào đâu, đành nằm bẹp xuống đất, mặt vùi trong cát. Gấu đến gần
dí mõm vào tai người này ngửi, ngửi mãi, Nhưng cuối cùng, gấu hú lên một
tiếng, lắc đầu rồi lững thững bỏ đi, vì gấu không ăn những con vật chết. Bấy giờ,
người trên cây trèo xuống gặp bạn, cười và nói rằng: “Ông Gấu thì thầm với cậu
điều gì đó?”
-“Ông ấy bảo tớ rằng”, người kia nói, “không nên tin vào những kẻ bỏ mặc
bạn bè trong cơn hoạn nạn”.
(Trích: Truyện ngụ ngôn Ê-dốp, Phạm Khải Hoàn dịch, NXB Văn học, 2013)
*Câu hỏi:
Câu 1: Văn bản trên được viết theo phương thức biểu đạt chính nào?
Câu 2: Chỉ ra những nhân vật xuất hiện trong văn bản.
Câu 3: Xác định tình huống hiểm nghèo trong văn bản? Tình huống đó có tác
dụng gì trong việc bộc lộ tính cách nhân vật?
*Lưu ý các câu nhận biết:
Câu 1. Đây câu hỏi nhận biết về phương thức biểu đạt chính thì yêu cầu HS
dựa vào đặc trưng và dấu hiệu của các phương thức biểu đạt để xác định chính
xác 1 phương thức.
12/20 + Gọi tên biện pháp tu từ
+ Chỉ ra từ ngữ hình ảnh
+ Nêu tác dụng:
Để nêu tác dụng, học sinh cần trả lời được các câu hỏi như: BPTT đó gợi
cho người đọc, người nghe liên tưởng, hình dung hoặc cảm nhận điều gì? BPTT
đó nhằm mục đích gì? Thể hiện cảm xúc, tình cảm gì của tác giả (của người viết)?
Ví dụ:
Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi bên dưới:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
(Sang thu – Hữu Thỉnh)
Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ gì? Nêu đặc điểm của thể thơ đó.
Câu 2. Câu thơ “Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu” sử dụng biện pháp
nghệ thuật đặc sắc nào? Nêu tác dụng của biện pháp đó.
Câu 3. Theo em, ý nghĩa của hai câu thơ cuối là gì?
14/20 “...Đến cuối chợ đã thấy lũ trẻ đang quây quần chơi nghịch. Chúng nó thấy chị
em Sơn đến đều lộ vẻ vui mừng, nhưng chúng vẫn đứng xa, không dám vồ vập.
Chúng như biết cái phận nghèo hèn của chúng vậy, tuy Sơn và chị vẫn thân mật
chơi đùa với, chứ không kiêu kỳ và khinh khỉnh như các em họ của Sơn.
Thằng Cúc, con Xuân, con Tý, con Túc sán gần giương đôi mắt ngắm bộ
quần áo mới của Sơn. Sơn nhận thấy chúng ăn mặc không khác ngày thường, vẫn
những bộ quần áo nâu bạc đã rách vá nhiều chỗ. Nhưng hôm nay, môi chúng nó
tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi. Mỗi cơn gió đến, chúng lại
run lên, hàm răng đập vào nhau.
{}
Chị Lan bỗng giơ tay vẫy một con bé, từ nãy vẫn đứng dựa vào cột quán,
gọi:
- Sao không lại đây, Hiên? Lại đây chơi với tôi.
Hiên là đứa con gái bên hàng xóm, bạn với Lan và Duyên. Sơn thấy chị
gọi nó không lại, bước gần đến trông thấy con bé co ro đứng bên cột quán, chỉ
mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay. Chị Lan cũng đến hỏi:
- Sao áo của mày rách thế Hiên, áo lành đâu không mặc?
Con bé bịu xịu nói:
- Hết áo rồi, chỉ còn cái này.
- Sao không bảo u mày may cho?
Sơn bây giờ mới chợt nhớ ra là mẹ cái Hiên rất nghèo, chỉ có nghề đi mò
cua bắt ốc thì còn lấy đâu ra tiền mà sắm áo cho con nữa. Sơn thấy động lòng
thương, cũng như ban sáng Sơn đã nhớ thương đến em Duyên ngày trước vẫn
cùng nói với Hiên đùa nghịch ở vườn nhà. Một ý nghĩ tốt bỗng thoáng qua trong
trí, Sơn lại gần chị thì thầm:
- Hay là chúng ta đem cho nó cái áo bông cũ, chị ạ.
- Ừ, phải đấy. Để chị về lấy.
Với lòng ngây thơ của tuổi trẻ, chị Lan hăm hở chạy về nhà lấy áo. Sơn đứng
lặng yên đợi, trong lòng tự nhiên thấy ấm áp vui vui”
16/20 - Điều quan trọng là các em đã tự mình đọc văn bản, hiểu văn bản và cảm
thụ văn bản. Tức là, các em đã biết tự mình tìm hiểu, khám phá văn bản.
Đó là điều hết sức quan trọng đề nâng cao chất lượng môn Ngữ văn.
- Từ việc biết cách đọc, cách xác định yêu cầu của đề đến kĩ năng trả lời câu
hỏi, các em đã có hứng thú hơn trong việc làm bài tập cô giao, làm đề ôn
luyện và cũng nâng cao được kết quả các bài kiểm tra.
Cụ thể:
Năm học 2022 – 2023, khi chưa áp dụng đề tài với học sinh lớp 7A1, kết
quả đánh giá (TBM) cuối kì II môn Ngữ văn như sau:
Tốt Khá Đạt Chưa đạt Trên TB
Lớp SL % SL % SL % SL % SL %
6A1 14 31.1 18 40 12 26.7 1 2.2 44 97.8
SS: 45
Năm học 2023 – 2024, khi áp dụng đề tài với học sinh lớp 7A1, kết quả
đánh giá (TBM) cuối kì I môn Ngữ văn như sau:
Tốt Khá Đạt Chưa đạt Trên TB
Lớp SL % SL % SL % SL % SL %
7A1 25 55.6 13 28.8 7 15.6 0 0 45 100
SS: 45
Với kết quả bộ môn trong học kì I vừa qua có thể thấy việc áp dụng giải
pháp đã thực sự mang lại hiệu quả trong công tác giảng dạy trong bộ môn Ngữ
văn.
18/20File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_lam_bai_doc_hieu_van_ban_c.docx

