Sáng kiến kinh nghiệm Rèn đọc đúng cho học sinh Lớp 4
1. Mô tả giải pháp
Trong các môn học thì môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện qua bốn kỹ năng “ Nghe- Nói - Đọc – Viết”.
Phân môn tập đọc trong trường tiểu học có một ý nghĩa rất to lớn. Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đọc khiến trẻ em chiếm lĩnh được mọi ngôn ngữ dung trong giao tiếp và học tập. Nó là một công cụ để học tập các môn học khác.
Thông qua việc dạy và học, Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng việt tự nhiên, xã hội và con người, về văn hóa, văn học Việt Nam.
Trong bốn kỹ năng: “Nghe -Nói-Đọc-Viết” thì kỹ năng “Đọc” có một ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục tình cảm chuẩn mực đạo đức và phát triển trí tuệ, tư duy cho học sinh.
- Thực trạng
a) Ưu điểm:
Tất cả học sinh trong lớp cùng thi đua rèn đọc. Nhiều em đọc có tiến bộ, to, rõ ràng, trôi chảy hơn. Tốc độ đọc của 1 số em đã có những cải thiện đáng kể. Ngoài những kết quả đã đạt được như thống kê ở trên, việc rèn đọc còn có tác dụng đem lại hứng thú học tập cho các em. Nhiều em bắt đầu cố gắng nỗ lực và có tính kiên trì chịu khó cao.
b) Tồn tại:
* Học sinh: Khả năng đọc của một số em tuy đã cải thiện rõ rệt, song sự cảm nhận văn học còn hạn chế.
- Học sinh ngại viết, không có hứng thú và lòng say mê khi rèn đọc hay mà chủ yếu là chỉ dừng lại ở mức độ đọc đúng.
- Bên cạnh đó phụ huynh không quan tâm đến sách vở cũng như các loại bút viết của học sinh.
* Giáo viên:
- Khả năng đọc của một số giáo viên chưa đạt yêu cầu nhưng không có ý thức luyện đọc dẫn đến không có sự mẫu mực trong đọc bài ở trên lớp.
- Một số giáo viên khi giảng dạy trên lớp vẫn còn phát âm sai chính tả. Trong quá trình giảng dạy, đa số giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại và thuyết trình. Số học sinh trong lớp đông, thời gian có hạn nên giáo viên không có điều kiện kèm cặp tỉ mỉ cho mọi đối tượng học sinh.
- GVCN chưa có kế hoạch cụ thể về thời gian cho việc rèn đọc ở lớp, ở nhà cho HS
* Nhà trường
- Chưa có hình thức tuyên dương khen ngợi trước tập thể đối với những học sinh có ý thức trong các phong trào liên quan đến đọc .
* Phụ huynh học sinh
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình. Chỉ yêu cầu học sinh học Tiếng việt, Toán mà quên rằng việc đọc của các em sẽ làm cho tâm hồn các em thêm phong phú.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn đọc đúng cho học sinh Lớp 4

- Bên cạnh đó phụ huynh không quan tâm đến sách vở cũng như các loại bút viết của học sinh. * Giáo viên: - Khả năng đọc của một số giáo viên chưa đạt yêu cầu nhưng không có ý thức luyện đọc dẫn đến không có sự mẫu mực trong đọc bài ở trên lớp. - Một số giáo viên khi giảng dạy trên lớp vẫn còn phát âm sai chính tả. Trong quá trình giảng dạy, đa số giáo viên sử dụng phương pháp đàm thoại và thuyết trình. Số học sinh trong lớp đông, thời gian có hạn nên giáo viên không có điều kiện kèm cặp tỉ mỉ cho mọi đối tượng học sinh. - GVCN chưa có kế hoạch cụ thể về thời gian cho việc rèn đọc ở lớp, ở nhà cho HS * Nhà trường - Chưa có hình thức tuyên dương khen ngợi trước tập thể đối với những học sinh có ý thức trong các phong trào liên quan đến đọc . * Phụ huynh học sinh - Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình. Chỉ yêu cầu học sinh học Tiếng việt, Toán mà quên rằng việc đọc của các em sẽ làm cho tâm hồn các em thêm phong phú. II. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN II.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến 1. Phương pháp thực hiện: + Phương pháp đọc tài liệu + Phương pháp quan sát + Phương pháp đàm thoại + Phương pháp thực hành + Phương pháp phân tích, tổng hợp 2. Những biện pháp cơ bản để rèn đọc cho học sinh lớp 4 2.1. Rèn học sinh đọc đúng vần, âm, dấu thanh. * Đọc đúng các âm dễ lẫn: Ví dụ 2: Đối với các nguyên âm đôi: “uống rượu” đọc thành “uống riệu”, vần “ươu” không đọc là” iêu” hoặc cho học sinh phát hiện những tiếng có vần khó như “ tuyết, khuyết, khúc khuỷu, đêm khuya, ngoằn nghèo, ngọ nguậy,..” - Gọi học sinh đọc lại từng từ, từng tiếng có vần khó. - Giáo viên uốn nắn, sửa luôn cho học sinh. Bên cạnh hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần như trên tôi còn luyện đọc đúng dấu thanh. * Đọc đúng dấu thanh. Học sinh Tiểu học vẫn còn có em chưa phát âm đúng, đọc đúng dấu thanh do nhiều yếu tố mang lại. Chính vì thế chúng ta cần rèn luyện cho các em học sinh đọc đúng dấu thanh trong các bài tập đọc như: Ví dụ khi dạy bài “Chú Đất Nung”-Nguyễn Kiên (TV lớp 4- tập 1) - Giáo viên đưa các tiếng mà có dấu thanh hay lẫn. - Giáo viên gọi một số học sinh đọc. - Học sinh khác nhận xét bạn đọc đúng dấu thanh chưa. - Nếu vẫn còn học sinh đọc chưa đúng, giáo viên đọc mẫu và phân tích cho học sinh. Chẳng hạn như: “Kị sĩ” không đọc là “kị sí”, thanh “ngã” thành thanh “sắc”. “Cưỡi ngựa tía” không đọc là “cưới ngựa tía”, thanh “ngã” đọc thành thanh “sắc”. Hoặc từ “dũng cảm” không đọc là “dúng cảm” thanh “ngã” đọc thành thanh “sắc”,... Việc rèn cho học sinh phát âm đúng giáo viên cần lưu ý sửa sai triệt để ở lớp và bất kì tiết học nào. Đồng thời nhắc nhở học sinh đọc đúng tốc độ và giọng đọc cũng rất cần thiết. 2.2. Rèn đọc đúng tốc độ, cường độ giọng đọc. Khi học sinh đã phát âm đúng, chuẩn nhưng còn đọc chậm, tôi luyện cho học sinh đọc nhanh, đọc rõ ràng, đọc trôi chảy bằng cách cho học sinh lắng Ví dụ: Cho học sinh thảo luận tụa phát hiện những chỗ cần ngắt giọng theo quy tắc ngữ pháp trong đoạn văn sau: Tôi đã ngửa cổ suốt một thời mới lớn// để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời/ và bao giờ cũng hi vọng khi tha thiết cầu xin//: “Bay đi diều ơi!//Bay đi!//” Cánh diều tuổi ngọc ngà bay đi/ mang theo nỗi khát khao của tôi.// (Cánh diều tuổi thơ- Tạ Duy Anh). * Ngắt nghỉ theo cụm từ và cách giữ hơi ở những câu văn dài: Đây là một việc làm khó nên tôi thường hướng dẫn học sinh bằng cách tôi đọc mẫu để cho học sinh phát hiện ra chỗ ngắt, nghỉ hơi. Ví dụ: Nhưng ai đấy đều nói là đòi hỏi của công chúa không thể thực hiện được/ vì mặt trăng ở rất xa/ và to gấp hàng nghìn lần nhà nước của nhà vua.// ( Rất nhiều mặt trăng- Ma Văn Kháng) * Ngắt theo nhịp thơ: Nhịp vần tạo nên nhạc điệu và là đặc trưng của thơ ca. Muốn vậy ngay từ bước đầu giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách nhận biết thể thơ tìm ra nhịp thơ phổ biến từ đó có cách ngắt giọng phù hợp. Ví dụ :Thơ lục bát thể thơ phổ biến là 2/4 và 4/4. Vì vậy khi đọc bài thơ “Mẹ ốm - Trần Đăng Khoa” học sinh cần phải biết phát hiện và ngắt đúng nhịp thơ. Hoặc trong thể thơ thất ngôn thì thể thơ phổ biến là 4/3 như bài “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ “Huy Cận”. Thể thơ có thể được ngắt rất linh hoạt tùy thuộc vào ý nghĩa ngữ pháp của mỗi dòng thơ, câu thơ, đặc biệt là trong thể thơ tự do học sinh khó có thể tìm ra nhịp thơ phổ biến vì vậy cần có sự hướng dẫn gợi mở của giáo viên. * Ngắt giọng biểu cảm: Thông qua hiểu nội dung, cảm thị bài sâu sắc giáo viên hướng dẫn học sinh cách ngắt nhịp biểu cảm tạo cho người nghe sự tập trung chú ý và góp phần tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao hơn trong văn bản. Ví dụ: câu thơ “ Mẹ/ là đất nước tháng ngày của con.//” (Mẹ ốm- Trần Đăng Khoa). Đoạn 1: Tả vẻ đẹp của đôi giày cần đọc giọng thế nào. Đoạn 2: Đọc giọng thế nào thấy được tâm trạng của cậu bé. - Đoạn 1: Đọc giọng hồi tưởng, nhẹ nhàng nhấn giọng một số từ ... Chao ôi!/ đôi giày mới đẹp làm sao!/ cổ giày cao,/ ôm sát chân,/ thân giày làm bằng vải cứng,/ dáng thon thả,/ màu vải như màu da trời.... - Đoạn 2: Nhấn giọng từ ngữ tả sự xúc động niềm vui sướng của cậu bé. Hôm nhận giày, tay Lái run run,/ môi cậu mấy máy,/ mắt hết nhìn đôi giày,/ lại nhìn xuống đôi chân,/ Lái cột hai chiếc giày vào nhau,/ đeo vào cổ,/nhảy tưng tưng... * Hướng dẫn nhấn giọng đối với văn bản thơ: Ví dụ: Khi dạy bài “Truyện cổ nước mình” (Tác giả: Lâm Thị Mỹ Dạ - Tiếng Việt 4- Phần 1). Thơ lục bát: Thể thơ lục bát cần đọc giọng thong thả, trầm tĩnh, sâu lắng. Sự ngắt nhịp của câu thơ rất đa dạng, phù hợp với nội dung của từng câu thơ như: Tôi yêu/ truyện cổ nước tôi// Vừa nhân hậu/lại tuyệt vời sâu xa// Thương người/rồi mới thương ta// Yêu nhau/ chi mới cách xa/ cũng tìm// Vàng cơn nắng,trắng cơn mưa// Con sông chảy/ có rặng dừa nghiêng soi// Câu thì nhịp 3/5, câu thì 2/4, câu lại nhịp 2/2/2 và câu nhịp 3/3. Khi dạy, chúng ta cho học sinh thấy được sự ngắt nhịp cũng như sự gieo vần của các dòng thơ. Thơ lục bát thường tiếng thứ 6 của câu 6 gieo vần với tiếng thứ 6 của câu 8 (Vần “ôi” củatiếng “tôi” gieo vần với vần “ơi” của tiếng “vời”) 2.6. Rèn cho học sinh đọc hiểu Đọc hiểu là thông qua đọc, người đọc hiểu được nội dung tư tưởng chủ đề đơn giản của bài. Nhận biết được đề tài, chủ đề đơn giản của bài. Nắm Ví dụ: Bài Cánh diều tuổi thơ- Tạ Duy Anh (Tiếng Việt 4, tập 1), câu hỏi: Trò chơi thả diều đem lại cho trẻ em những niềm vui lớn và những ước mơ đẹp như thế nào? Giáo viên có thể tách thành hai câu hỏi nhỏ: Trò chơi thả diều đem lại cho trẻ em những niềm vui lớn như thế nào ? (Các bạn hò hét nhau thả diều thi, vui sướng đến phát dại nhìn lên trời) ; Trò chơi thả diều đem lại cho trẻ em những ước mơ đẹp như thế nào? (Nhìn lên bầu trời đêm huyền ảo , đẹp như một tấm thảm nhung khổng lồ,bạn nhỏ thấy lòng mình cháy lên, cháy mãi khát vọng....). Như vậy, thông qua đọc học sinh không những thấy được , hiểu được , cảm nhận được nội dung, ý nghĩa của văn bản mà còn thấy được giá trị nghệ thuật của từng văn bản, có thể đưa ra nhận xét, đánh giá về chúng. Đồng thời có thể truyền tải những cái hay,cái đẹp đó đến mọi người thông qua hình thức đọc diễn cảm. 2.7. Rèn kĩ năng đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm đối với các em lớp 4 còn quá mới mẻ và thường gặp nhiều khó khăn: Các em thường đọc một mạch từ đầu đến hết bài bằng một giọng đều đều, không thể hiện cảm xúc ; có em thể hiện một cách thái hóa sự biểu lộ cảm xúc của mình gây phản cảm cho người nghe (cố ý gằn giọng quá mạnh hoặc nhấn giọng ở những chỗ không cần thiết,...) ; có em đọc quá nhỏ, quá to, quá nhanh hoặc quá chậm nên chưa thể hiện được rõ những tâm tư, tình cảm của tác giả gửi gắm vào trong từng tác phẩm. Giáo viên cần hướng dẫn đọc diễn cảm thông qua việc gợi mở học sinh thể hiện tình cảm,thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc trong bài thơ, phù hợp tính cách nhân vật trong bài văn để bước đầu các em làm chủ được giọng đọc với giọng điệu, tốc độ, cao độ, cường độ, âm sắc nhằm diễn tả đúng nội dung bài. Đồng thời tư thế, nét mặt,cử chỉ,ánh mắt là những biểu hiện bên ngoài của người đọc có tác dụng bổ sung cho ngữ điệu đọc. Nét mặt phải thể hiện được thái độ của người đọc đối với nội dung tác phẩm một cách tự nhiên. Đọc một câu chuyện vui nét mặt phải tươi sáng. Đọc một câu chuyện thể, giáo viên là người hướng dẫn tổ chức.Giáo viên chúng ta nên chú ý quan tâm đến học sinh yếu nhiều hơn. Rèn cho học sinh đọc từ thấp đến cao, ban đầu là phát âm đúng, đọc đúng tiếng, đúng tốc độ, ngắt nghỉ hơi đúng và nâng cao hơn là đọc diễn cảm bài văn, bài thơ. * Khi dạy các bài thơ, bài văn có câu hỏi, câu cảm giáo viên cần hướng dẫn các em đọc đúng giọng của từng loại câu để thể hiện cảm xúc của nhân vật và của tác giả. Ví dụ: Bài Chị em tôi - LiênHương (Tiếng Việt 4, tâp 1): Mày tập văn nghệ ở rạp chiếu bóng à?Ủa,chị cũng ở đó sao? Hồi nãy chị bảo đi học nhóm mà! Tôi sẽ hướng dẫn học sinh đọc cao giọng ở cuối câu hỏi nhấn giọng ở những từ để hỏi. Hay câu: “Hồi nãy chị bảo đi học nhóm mà! ” đọc với giọng tinh nghịch, giả bộ ngây thơ. * Đối với văn bản phi nghệ thuật: Chúng ta cần hướng dẫn học sinh xác định giọng đọc sao cho phù hợp nội dung cần thông báo, làm rõ thông tin giúp người đọc tiếp nhận được vấn đề trong văn bản. Ví dụ: Bài “Vẽ về cuộc sống an toàn” - Báo Đại Đoàn Kết (Tiếng Việt 4, tập 2) cần hướng dẫn học sinh đọc to, rõ ràng, rành mạch, dứt khoát giữa các câu, đoạn nhằm thể hiện đầy đủ nội dung của bản tin. Để rèn kỹ năng đọc cho học sinh chúng ta cần hướng dẫn học sinh thực hiện các yêu cầu sau: - Đọc phát âm đúng. - Đọc ngắt nghỉ hơi theo dấu câu; ngắt nghỉ hơi đúng giữa các cụm từ ở những câu dài; Đọc to rõ ràng, trôi chảy, lưu loát; Biết đọc nhấn giọng, thay đổi sắc thái giọng đọc phù hợp với văn cảnh,lời nhân vật. Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy, để tiết Tập đọc đạt yêu cầu chúng ta cần tạo không khí sôi động như tổ chức cho các em đọc thi đua theo nhiều hình thức: đọc cá nhân, đọc nhóm,đọc theo vai,...; Có thể tổ chức đọc truyện cho các luyện tập ra học sinh còn được bộc lộ, phát triển tài năng, kinh nghiệm của bản thân qua tham gia các hoạt động học tập. Các hoạt động được thực hiện trong tiết học, sau khi học sinh đã có kiến thức tổng hợp. Các hoạt động được tổ chức ngay trong không gian lớp học, tại thời gian của tiết học sẽ giúp học sinh hứng thú học tập. Thông qua các hoạt động học sinh được luyện tập cá nhân, luyện tập ngay trên lớp theo sự hướng dẫn của giáo viên. Nhờ các các hoạt động và các thủ pháp nhằm khắc sâu kiến thức. Trong nhà trường nếu triển khai tốt các phương pháp trên thì hiệu quả kinh tế mang lại là rất lớn. b) Hiệu quả về mặt xã hội: - Giáo viên mạnh dạn thay đổi các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào bài dạy. - Học sinh thì chủ động, tích cực lĩnh hội kiến thức mới. - Nâng cao chất lượng các môn học trong nhà trường. c) Giá trị làm lợi khác: Góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong xu thế hội nhập. Đảm bảo sự phát triển hài hoà về đức, trí, thể, mĩ, các kĩ năng cơ bản, hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Nhờ các hoạt động thực hành và dựa vào kiến thức thu được qua việc tổ chức các các hoạt động học sinh sẽ tích luỹ được những kĩ năng cần thiết phục vụ cho đời sống thực tiễn. Hùng Tiến, ngày tháng 01 năm 2022 Người viết Đào Thị Thúy
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_doc_dung_cho_hoc_sinh_lop_4.docx