Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giới thiệu ngữ liệu mới đạt hiệu quả cao, Ngoại ngữ 9
Với mỗi một môn học đều có những phương pháp giảng dạy, đặc thù riêng. Đối với việc giảng dạy môn Ngoại ngữ nói chung và với môn Tiếng Anh nói riêng thì phương pháp giảng dạy phải là một vấn đề cần được đặt lên hàng đầu. Để có một tiết học Tiếng Anh có chất lượng tốt, tạo cho học trò một sự hứng khởi khi tiếp thu bài học thì người giáo viên giảng dạy phải thực sự có những phương pháp độc đáo, hấp dẫn.
Qua quá trình trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy rằng ngoài kiến thức, phong cách của một giáo viên Ngoại ngữ thì phương pháp giảng dạy cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc thu hút học sinh thích thú, tập trung cũng như yêu mến môn học. Hiện nay đã có rất nhiều phương pháp giảng dạy mới đã và đang được áp dụng trong quá trình dạy Ngoại ngữ ở trường THCS. Đó là các phương pháp hay, dễ sử dụng và đã góp phần nâng cao chất lượng môn học. Với bản thân mình tôi nhận thấy việc sử dụng các phương pháp phù hợp trong việc giảng dạy và học tập môn Tiếng Anh thực sự có hiệu quả. Học sinh cảm thấy hứng thú thúc đẩy năng lưc học tập của người học.
Giới thiệu ngữ liệu mới là nội dung đầu tiên và quyết định sự thành công hay thất bại của một đơn vị bài học. Do đó để học sinh nắm vững ngữ liệu mới giáo viên cần tập trung đầu tư cho tiết học này thật nhiều.
Đối với học sinh môn tiếng Anh là môn thi vào trường PTTH, vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị giáo án và nghiên cứu bài dạy thật kĩ, để tìm ra các thủ phương pháp tạo hứng thú cho các em tập chung vào bài học. Tạo cho học sinh có nền tảng kiến thức không chỉ trong một đơn vị bài học mà còn cả trong suốt năm học hay xa hơn nữa là suốt trong cấp học để các em có kiến thức căn bản nhất của cả cấp học làm hành trang tốt nhất để tiếp tục học trung học phổ thông.
Trong quá trình giảng dạy thực tế những năm vừa qua, bản thân tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm trong việc Giới thiệu ngữ liệu mới. Ý thức được các quan điểm phương pháp chỉ đạo của ngành và đặc thù môn học, hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng của Tiếng Anh đối với yêu cầu của xã hội trong quá trình đổi mới và hội nhập, tôi mạnh dạn đưa những kinh nghiệm này ra nhằm mục đích trao đổi, chia sẻ quan điểm và rất mong nhận được ý kiến đóng góp, phê bình của các đồng chí đồng nghiệp. Mục đích của tôi khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này là thúc đẩy ý thức tự giác học tập của học sinh và nâng cao hiệu quả dạy và học môn Tiếng Anh tại các nhà trường THCS trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội về khả năng giao tiếp và sử dụng Tiếng Anh trong thời kỳ mới.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giới thiệu ngữ liệu mới đạt hiệu quả cao, Ngoại ngữ 9

2/15 3. Mục đích của đề tài. Qua đề tài này, mục đích đạt được của tôi nhằm nâng cao chất lượng giờ giảng của giáo viên; Nâng cao chất lượng học tập của học sinh, thông qua việc làm phong phú phương pháp giảng dạy, kết hợp với nhiều phương pháp giảng dạy, cũng như kết hợp với các bộ môn khác. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh, đẩy mạnh hơn nữa nền giáo dục của địa phương. Tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, phát huy tối đa tính chủ động của học sinh trong học tập môn tiếng Anh. 4. Phạm vi thực hiện đề tài: Đối với tất cả học sinh các khối lớp do tôi giảng dạy. 5. Thời gian thực hiện đề tài: Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, giảng dạy không những là của bộ môn tiếng Anh mà là của tất cả các môn học khác. Đây cũng không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, do đó để có thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài, do đó tôi phải phải dành ra khoảng thời gian rất lớn trước đó để tìm ra vấn đề, định hình đề tài nghiên cứu từ những năm học trước. Ở đây do điều kiện thực tế còn hạn chế nên tôi chia khoảng thời gian thực hiện đề tài của tôi như sau: 5.1. Tháng 9 năm 2022: - Quan sát đánh giá tình hình học tập của học sinh. - Lựa chọn nội dung nghiên cứu, tên đề tài sáng kiến kinh nghiệm. - Sưu tầm thu thập tài liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu. - Dạy thực nghiệm. 5.2. Tháng 10 năm 2022: - Đăng kí tên đề tài. - Xây dựng đề cương. - Thông qua tổ chuyên môn thảo luận, xét duyệt. 5.3 tháng 11 năm 2022: - Viết đề tài. - Dạy thực nghiệm. 5.4 Tháng 12 năm 2022, tháng 1, 2, 3, 4, 5 năm 2023: - Áp dụng vào thực tế giảng dạy. - Đúc rút kinh nghiệm, sửa đổi bổ sung kịp thời. Đề tài này tôi đã, đang và sẽ được áp dụng vào quá trình giảng dạy môn tiếng Anh ở trường THCS với tất cả các khối lớp trong năm học 2023- 2024. 4/15 để giúp học sinh vào nề nếp. Mặt khác giáo viên còn phải chuẩn bị các thủ thuật để dạy một đơn vị bài như: giới thiệu tình huống ngữ pháp cấu trúc từ vựng v.v Thêm vào đó giáo viên cần tạo điều kiện giúp học sinh có điều kiện giao tiếp, thực hành trong lớp dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của giáo viên, để kịp thời sửa chữa những sai sót. b. Học sinh: Như chúng ta đã biết, mỗi học sinh đều phải thực hiện nghiêm chỉnh nhiệm vụ, vai trò của mình. Trước tiên học sinh phải có đủ phương tiện, đồ dùng học tập tối thiểu cho bộ môn như: Sách, vở, bút, mực Trong giờ học luôn có thái độ học tập nghiêm túc, tích cực chú ý nghe giảng, luyện tập theo sự chỉ đạo của giáo viên. Làm bài tập về nhà đầy đủ, chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp. Đặc biệt với bộ môn tiếng Anh các em luôn phải tạo cho mình phong thái tự tin, mạnh dạn không sợ khó, sợ sai. Mỗi học sinh biết tự đề ra cho mình phương pháp học tập hợp lý thường xuyên thảo luận, đề xuất ý kiến về những thuận lợi và khó khăn trong việc học tập bộ môn. CÁC GIẢI PHÁP TIẾN HÀNH 1. Giới thiệu ngữ liệu mới như thế nào có hiệu quả? Các bước giới thiệu ngữ liệu mới. Giới thiệu ngữ liệu mới là làm rõ nghĩa, cách phát âm, cấu trúc hình thái, và cách dùng của một mục dạy nào đó trong một ngữ cảnh nhất định. Mục dạy có thể là các mẫu lời nói, từ vựng hay ngữ pháp, hoặc một nội dung chủ điểm nào đó, thường được giới thiệu thông qua một bài hội thoại hay một bài khoá, hoặc những tình huống có sự hỗ trợ của giáo cụ trực quan. Với phương pháp dạy học mới, công việc giới thiệu ngữ liệu không còn thuần tuý chỉ là việc thầy giải thích nghĩa của từ mới (mà phần lớn giáo viên thường thực hiện bằng cách cho nghĩa tiếng Việt) và giải thích các quy tắc ngữ pháp và các mẫu câu. ở phần này, người giáo viên còn cần phải đồng thời làm rõ cách sử dụng của các mẫu câu hoặc từ mới đó trong ngữ cảnh. Chỉ khi được giới thiệu trong ngữ cảnh, nghĩa và cách sử dụng của các ngữ liệu cần dạy mới được làm sáng tỏ. Như vậy, nội dung cần giới thiệu ở bước dạy ngữ liệu là: * Hình thái (Form: pronunciation; spelling; grammar) * Ngữ nghĩa (Meaning) * Cách sử dụng (Use) Một đặc điểm nổi bật của phương pháp mới trong việc giới thiệu ngữ liệu là phương pháp mới rất chú trọng tới việc phải làm sao cho học sinh tiếp thụ bài học không chỉ qua nghe thụ động mà còn được vận động trí óc, chủ động tham gia vào quá trình của họat động này qua nhiều hoạt động ngôn ngữ khác nhau. 6/15 - Thực hiện một số bài tập lắp ghép; - Xây dựng các bài hội thoại ngắn theo mẫu bằng cách lắp ghép những từ, đoạn câu gợi ý; - Thực hiện các bài tập hỏi /trả lời theo dạng câu hỏi đóng hoặc các câu hỏi trắc nghiệm đúng sai (comprehensive questions, True/False questions) - Dịch ra tiếng Việt (nếu phù hợp và cần thiết) Tóm tắt các bước giới thiệu ngữ liệu mới Các bước giới thiệu ngữ liệu mới có thể được tóm tắt theo một tiến trình như sau: - Giới thiệu ngữ nghĩa và cách sử dụng của ngữ liệu: cấu trúc ngữ pháp/ từ mới/ mẫu câu chức năng qua tình huống, ngữ cảnh, mẫu hội thoại, tranh ảnh... - Nêu bật cấu trúc/ từ/ mẫu câu chức năng mới bằng cách đọc to cho học sinh nghe nhắc lại hoặc bằng các thủ thuật khác nhằm hướng sự chú ý của học sinh vào những mục dạy đó. - Viết các cấu trúc/ từ mới lên bảng, làm rõ hình thái cấu trúc, giải thích nếu cần. - Làm rõ thêm nghĩa và cách sử dụng bằng cách tiếp tục đưa thêm các tình huống hoặc các ví dụ khác. - Lặp lại tương tự bước 2 hoặc cho học sinh tái tạo theo gợi ý. - Kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh sử dụng các thủ thuật kiểm tra hiểu như gợí ý. Khi giáo viên nhận thấy học sinh đã làm tốt. thì có thể chuyển sang phần luyện tập sáng tạo hơn với các loại bài tập mang tính giao tiếp hơn. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng không phải lúc nào việc giới thiệu ngữ liệu cũng phải tuân theo tuần tự tiến trình trên. Sau khi học sinh đã làm các bài tập thực hành. Một số lưu ý khi giới thiệu/dạy từ vựng Tiến trình giới thiệu ngữ liệu được trình bày ở trên có thể được coi là tiến trình chung cho việc giới thiệu ngữ liệu mới. Tuy nhiên, cách giới thiệu từ vựng cũng có những đặc thù riêng. Phần này sẽ trình bày một số điểm cần lưu ý khi giới thiệu từ mới. Chọn từ để dạy Thông thường trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng cần đưa vào dạy như nhau. Để lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét các câu hỏi sau: a) Từ chủ động hay từ bị động? 8/15 Như đã đề cập, điểm nổi bật ở phương pháp mới là tạo cho học sinh được tham gia vào quá trình giới thiệu ngữ liệu mới. Trong giai đoạn giới thiệu ngữ liệu mới, thông thường giáo viên đóng vai trò chính, vai trò truyền thụ, học sinh đóng vai tiếp nhận, thụ động là chủ yếu. Tuy nhiên, nếu giáo viên tạo được điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình này, kết quả tiếp thu bài của các em sẽ tốt hơn nhiều. Để làm được điều đó, giáo viên cần tìm kiếm và sử dụng những thủ thuật phát huy sự chủ động suy đoán, tự phát hiện của học sinh. Ví dụ, phát hiện và nhận biết cấu trúc hay từ mới và tự rút ra mẫu cấu trúc của các mục ngữ pháp, hoặc đoán nghĩa từ trong ngữ cảnh, tự giải thích nghĩa từ bằng vốn từ có sẵn, cho từ đồng nghĩa, hoặc trái nghĩa... 3. Một số minh họa cụ thể: Tùy vào nội dung cấu trúc và vào điều kiện giảng dạy mà giáo viên có thể áp dụng thủ thuật nào cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Những thủ thuật cơ bản giới thiệu ngữ liệu mới theo quan điểm giao tiếp là: * Sử dụng tranh ảnh: Tranh ảnh được dùng để học sinh ghép hình ảnh với hành động, thời của động từ trong câu và hoàn cảnh sử dụng câu đó. Ví dụ: Giáo viên có thể lợi dụng những tranh ảnh trong sách giáo khoa hoặc vẽ những tranh khác khổ lớn hơn để cả lớp cùng có thể nhìn rõ được. Câu hỏi: What can you see in this picture? * Dùng động tác hay ngôn ngữ cử chỉ: Động tác hay ngôn ngữ cử chỉ giúp HS nhận biết và ghép nghĩa của động tác với nghĩa của câu, nghĩa của động từ, tính từ Ví dụ: Giáo viên muốn giới thiệu cấu trúc “I wish.” Giáo viên chỉ vào mình và nói “I am short. I wish I were fatter.” * Đồ vật thực, người thực: Đồ vật thực, người thực giúp gây ấn tượng về hình ảnh để học sinh liên hệ trực tiếp. Ví dụ: Giáo viên dùng những đồ vật thực để giới thiệu từ vựng mới một cách nhanh chóng và hiệu quả * Nêu tình huống: giáo viên nêu tình huống để học sinh nhận ra khi nào thì dùng mẫu câu đó, phát huy sáng tạo và khả năng suy luận của học sinh. Cách giới thiệu này thường áp dụng cho các * Nêu ví dụ: giáo viên nêu ví dụ là nhằm cung cấp cho học sinh cấu trúc câu chuẩn mực, từ đó học sinh có thể lắp ghép, thay thế từng thành phần câu để tạo nên nhiều câu khác nhau. Ví dụ: Giáo viên muốn giới thiệu từ “furniture” giáo viên đưa ra ví dụ “ tables, chairs, desks - These are all Give me another example of” Giáo viên giới thiệu “câu tường thuật” bằng cách đưa ra câu mẫu: 10/15 3.3. Gap fill: Giáo viên cung cấp cho học sinh một bài tập viết có những chỗ trống để họ điền vào những dạng của động từ trong các cấu trúc câu mới được giới thiệu Trong bài học học sinh vừa học về đại từ quan hệ: who, whom, which, that, whose, why, . Giáo viên có thể kiểm tra sự hiểu bài của học sinh như sau: The book _________ I liked was the detective story. The girl ________ is wearing a blue shirt is Mai 3.4. Matching: Viết một nửa của một câu giáo viên muốn kiểm tra học sinh sang một cột, viết nửa còn lại của câu vào một cột khác. Yêu cầu học sinh kẻ một đường thẳng để nối 2 nửa câu làm thành câu đầy đủ. museum People go to this area to walk, play, and relax. zoo It is a place where objects of artistic, cultural, historical, or scientific interest are kept and shown. park People go to this place to see animals. Beauty spot It is an area of sand, or small stones, beside the sea or a lake. beach It is a beautiful and famous place in the countryside. 3.5. Network / Brain storming: Giáo viên viết mạng từ (theo chủ điểm) lên bảng (theo mạng) rồi yêu cầu học sinh đặt câu với từ đã học từ đãhọc. cinema Opera house Places of interest museum library park 12/15 - Finding friends: Kẻ một bảng gồm dãy từ hàng ngang và hàng dọc. Học sinh dánh dấu vào ô liên kết từ ở hai hàng ngang và dọc để tạo nên câu / cụm từ có nghĩa. Ví dụ: Let’s read short stories in English. - Find someone who: Giáo viên kẻ lên bảng với các từ mới được giới thiệu ở cột dọc. Học sinh dùng ngữ liệu mới này để đặt câu hỏi theo mẫu câu. Ví dụ: Why don’t we go to Seatle school of English? - Noughts and crosses: Trò chơi viết từ này giống như chơi cờ ca rô. Học sinh nào có ba từ xếp theo hàng ngang, dọc hay chéo và đặt câu đúng với những từ đó là người thắng cuộc. - Pelmanism: giáo viên chuẩn bị một số tấm bìa, viết một nửa câu tiếng Anh vào một tấm bìa, viết nửa còn lại của câu vào một tấm bìa khác. Có thể làm như vậy đối với 3-5 câu. Học sinh chơi theo nhóm, em nào lật được 2 tấm bìa mà làm thành một câu hoàn chỉnh thì được có 2 tấm bìa đó. Ai trong nhóm có được nhiều tấm bìa thì là người thắng cuộc. - Simon says: giáo viên hô câu có Simon says, học sinh nghe mệnh lệnh và làm động tác. - What and where: Để luyện tập câu hỏi bắt đầu bằng các từ “What và Where”, giáo viên vẽ vòng tròn rồi viết từ mới vào trong vòng tròn đó, cho học sinh đọc kĩ và ghi nhớ từ. Giáo viên xóa từ đi. Yêu cầu học sinh hỏi: What’s in A, B, C? hay Where’s(một từ tiếng Anh ) giáo viên nghe câu trả lời rồi viết từ vào vòng tròn đúng. A B C - Guessing game: Một học sinh ngồi bàn đầu, không quay mặt xuống phía cuối lớp học, đoán xem người ngồi sau mình đang mang những tư trang gì. Is he / she wearing? - Rub out and remember: Giáo viên viết một câu tiếng Anh lên bảng rồi lần lượt xóa đi từng thành phần hay một nửa câu rồi yêu cầu học sinh đọc đồng thanh câu tiếng Anh đầy đủ đó. - Lucky numbers: học sinh được yêu cầu gọi một số bất kì. (Mỗi từ mới tương ứng với một số) Nếu họ gọi được số may mắn thì không phải đặt câu với những từ đó. 14/15 2. Bài học rút kinh nghiệm: Từ việc tìm ra giải pháp mới hổ trợ cho công tác giảng dạy của chính mình và cùng trao đổi ý kiến với các giáo viên đồng nghiệp trong tổ bộ môn tôi đã mạnh dạn áp dụng giải pháp này với kết quả ban đầu tuy chưa cao nhưng bản thân tôi rút ra được kinh nghiệm cho bản thân là: - Trong mỗi bài học giáo viên chỉ nên giới thiệu từ một đến hai cấu trúc mới. Nếu nhiều quá học sinh sẽ dể lẫn lộn và khó nhớ. Ngoài ra giáo viên cần thời gian cho học sinh luyện tập sử dụng mẫu câu trong các ngữ cảnh khác nhau. - Giáo viên cần lựa chọn thủ thuật phù hợp với nội dung của ngữ liệu mới. Giáo viên có thể giới thiệu một ngữ liệu mới bằng những thủ thuật khác nhau. - Giáo viên nên nhớ rằng dạy ngữ pháp / từ vựng tức là đề cập đến cấu trúc của ngữ pháp hay từ, ngữ, vì thế bao gồm các thành phần về dạng thức cấu trúc (cấu trúc hình vị, ngữ âm, chữ viết và cấu trúc ngữ pháp), ngữ nghĩa (ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp) và ngữ dụng (cấu trúc đó được sử dụng trong hoàn cảnh nào). 3. Điều kiện thực hiện: * Đối với giáo viên: Để một giờ học Tiêng Anh đạt kết quả tốt, GV phải tìm tòi nghiên cứu, thiết kế giáo án trong đó sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học. Người thầy phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần trách nhiệm với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đặc biệt là lòng đam mê sáng tạo trong nghề nghiệp. * Đối với học sinh: - Phải chuẩn bị chu đáo cho bài học. Mạnh dạn, tích cực, sôi nổi trong học tập. - Có tinh thần tự giác cố gắng vươn lên trong học tập, tự tìm tòi, nghiên cứu qua sách báo, qua các kênh thông tin và internet vv. - Rèn khả năng tư duy, sư suy đoán, tính khẩn trương trong học tập và trong cuộc sống. * Đối với nhà trường: - Tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ dạy và học. - Khuyến khích giáo viên có tinh thần tích cực trong vận dụng hình thức trò chơi trong dạy học. 4. Kiến nghị: - Nhà trường: Phát huy vai trò của nhóm chuyên môn, đầu tư xây dựng phòng học bộ môn với trang thiết bị đáp ứng việc dạy và học môn tiếng Anh.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_gioi_thieu_ngu_lieu_moi_da.doc