Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giải bài tập chương III môn Khoa học tự nhiên Lớp 7 theo bộ sách giáo khoa mới
Khoa học tự nhiên (KHTN) là môn học được xây dựng và phát triển trên nền tảng của Vật lý, Hoá học, Sinh học và Khoa học Trái Đất,... Đồng thời, sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học khác liên quan như Toán học, Tin học,... cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển không ngừng của KHTN.
Môn KHTN là môn học bắt buộc ở cấp THCS, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của HS, giúp HS phát triển và hoàn thiện các phẩm chất, năng lưc, tri thức đã hình thành cở cấp Tiểu học để tiếp tục học lên cấp THPT, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động.
Cùng với các môn học khác, môn KHTN hình thành và phát triển cho HS các phẩm chất chủ yếu đã được nêu trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, bao gồm những phẩm chất: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm. Môn KHTN góp phần chủ yếu trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của HS; đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục HS phẩm chất tự tin, trung thực, khách quan, tình yêu thiên nhiên, tôn trọng và biết vận dụng các quy luật của tự nhiên, để từ đó biết ứng xử với thế giới tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững.
Môn KHTN hình thành và phát triển cho HS những năng lực chung: năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo; góp phần hình thành và phát triển một số năng lực khác như: năng lực ngôn ngữ, năng lực tính toán, năng lực công nghệ, năng lực tin học; góp phần phát triển năng lực học tập suốt đời. Bên cạnh đó, môn KHTN hình thành và phát triển cho HS các năng lực chuyên môn về tìm hiểu tự nhiên. Thông qua phương pháp dạy học tích cực hoá hoạt động của người học, nhấn mạnh quá trình chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học của HS để hình thành và phát triển các kỹ năng thực hành và kỹ năng tiến trình: quan sát, đặt câu hỏi và trả lời, lập luận, dự đoán, chứng minh hay bác bỏ giả thuyết bằng thực hành, mô hình hoá, giải thích, vận dụng, tổng hợp kiến thức khoa học để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Các hoạt động học tập của HS chủ yếu là học tập chủ động, tích cực chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của GV. Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường, thông qua một số phương pháp dạy học chủ yếu sau: tìm tòi, khám phá; phát hiện và giải quyết vấn đề; bài tập tình huống; dạy học thực hành và thực hiện bài tập; tự học,...
Tuỳ theo mục tiêu cụ thể và mức độ phức tạp của hoạt động học tập, HS được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Ngoài sử dụng các phương pháp dạy học chung, dạy học môn KHTN ở THPT cần quan tâm và sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học đặc thù:
- Dạy học dự án ứng dụng khoa học tự nhiên; Dự án tìm hiểu các vấn đề khoa học tự nhiên trong thực tiễn.
- Dạy học bằng các bài tập tình huống trong thực tiễn đời sống.
- Dạy học thông qua thực hành trong phòng thí nghiệm, ngoài thực địa.
- Dạy học sử dụng các thí nghiệm ảo.
- Dạy học thông qua quan sát mẫu vật thật.
- Dạy học thông qua tham quan các cơ sở khoa học, cơ sở sản xuất.
Như vậy trong chương trình GDPT 2018 dạy học bằng các bài tập vẫn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Đặc biệt trong chương III của môn KHTN lớp 7 có rất nhiều bài tập gắn liền với thực tế đời sống nhưng thời lượng dành cho tiết bài tập lại rất ít. Qua thực tế giảng dạy bộ môn KHTN nói chung và phân môn Vật lý nói riêng ở trường THCS Phú Lâm, tôi nhận thấy trong các giờ học khi có bài tập đã nảy sinh nhiều mặt hạn chế về mặt tổ chức hướng dẫn học sinh làm bài tập, học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn lúng túng khi giải các bài tập đặc biệt đối với các em HS lớp 6 và lớp 7 vì khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, vốn kiến thức toán học chưa nhiều, cho nên chưa đáp ứng được theo phương pháp mới đã đề ra cũng như chưa đáp ứng được theo nhu cầu mong muốn của người dạy. Từ những lý do trên, để học sinh có thể nhận dạng và định hướng về phương pháp giải một bài toán của chương III môn KHTN lớp 7, tôi đã chọn đề tài “Phương pháp giải bài tập chương III môn Khoa học tự nhiên lớp 7” để viết sáng kiến kinh nghiệm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp giải bài tập chương III môn Khoa học tự nhiên Lớp 7 theo bộ sách giáo khoa mới

QUI ƯỚC VIẾT TẮT STT Ký hiệu viết tắt Nội dung đầy đủ 1 HS Học sinh 2 GV Giáo viên 3 THCS Trung học cơ sở 4 THPT Trung học phổ thông 5 GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo 6 SL Số lượng 7 NXBGDVN Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 8 NXBĐHSP Nhà xuất bản đại học sư phạm 9 KHTN Khoa học tự nhiên 10 ADCT Áp dụng công thức 11 CTGDPT Chương trình giáo dục phổ thông 2 Các hoạt động học tập của HS chủ yếu là học tập chủ động, tích cực chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của GV. Các hoạt động học tập nói trên được tổ chức trong và ngoài khuôn viên nhà trường, thông qua một số phương pháp dạy học chủ yếu sau: tìm tòi, khám phá; phát hiện và giải quyết vấn đề; bài tập tình huống; dạy học thực hành và thực hiện bài tập; tự học,... Tuỳ theo mục tiêu cụ thể và mức độ phức tạp của hoạt động học tập, HS được tổ chức làm việc độc lập, làm việc theo nhóm hoặc làm việc chung cả lớp. Ngoài sử dụng các phương pháp dạy học chung, dạy học môn KHTN ở THPT cần quan tâm và sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học đặc thù: - Dạy học dự án ứng dụng khoa học tự nhiên; Dự án tìm hiểu các vấn đề khoa học tự nhiên trong thực tiễn. - Dạy học bằng các bài tập tình huống trong thực tiễn đời sống. - Dạy học thông qua thực hành trong phòng thí nghiệm, ngoài thực địa. - Dạy học sử dụng các thí nghiệm ảo. - Dạy học thông qua quan sát mẫu vật thật. - Dạy học thông qua tham quan các cơ sở khoa học, cơ sở sản xuất. Như vậy trong chương trình GDPT 2018 dạy học bằng các bài tập vẫn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Đặc biệt trong chương III của môn KHTN lớp 7 có rất nhiều bài tập gắn liền với thực tế đời sống nhưng thời lượng dành cho tiết bài tập lại rất ít. Qua thực tế giảng dạy bộ môn KHTN nói chung và phân môn Vật lý nói riêng ở trường THCS Phú Lâm, tôi nhận thấy trong các giờ học khi có bài tập đã nảy sinh nhiều mặt hạn chế về mặt tổ chức hướng dẫn học sinh làm bài tập, học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn lúng túng khi giải các bài tập đặc biệt đối với các em HS lớp 6 và lớp 7 vì khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, vốn kiến thức toán học chưa nhiều, cho nên chưa đáp ứng được theo phương pháp mới đã đề ra cũng như chưa đáp ứng được theo nhu cầu mong muốn của người dạy. Từ những lý do trên, để học sinh có thể nhận dạng và định hướng về phương pháp giải một bài toán của chương III môn KHTN lớp 7, tôi đã chọn đề tài “Phương pháp giải bài tập chương III môn Khoa học tự nhiên lớp 7” để viết sáng kiến kinh nghiệm. 4 3. Đóng góp của sáng kiến nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn KHTN lớp 7 ở trường THCS. Việc đổi mới nội dung và phương pháp trong dạy học môn KHTN phải gắn liền với kĩ năng giải các bài tập, tuy nhiên đối với bộ môn KHTN lớp 7 bài tập của chương III rất đa dạng, phong phú, có những bài tập nâng cao khá phức tạp ở chương trình cũ cấp THCS còn chưa đề cập tới. Ở chương trình môn KHTN lớp 7, chương III: “Tốc Độ”: là một trong những chương quan trọng nhằm giúp học sinh nắm được kiến thức về: tốc độ chuyển động, đo tốc độ, đồ thị quãng đường – thời gian, thảo luận về ảnh hưởng của tốc độ trong an toàn giao thông. Sau mỗi nội dung kiến thức thì đều có các bài tập xong chưa có phân dạng và phương pháp giải cụ thể cho từng bài. Trong cách giải bài tập phân môn Vật lý THCS hiện nay đòi hỏi tính tự chủ và tính sáng tạo của học sinh cao, việc giải bài tập đòi hỏi HS phải tóm tắt được dữ liệu của đề bài (Cho những đại lượng nào? hỏi những đại lượng nào? cần thống nhất đơn vị như thế nào khi giải?). Trong đề bài ẩn chứa các đại lượng, nội dung, bản chất Vật lý nào? Kế hoạch giải ra sao? Chọn công thức, cách giải nào phù hợp? Trên cơ sở đó sẽ giúp HS củng cố lại những kiến thức đã học, hiểu sâu sắc bản chất của từng loại bài từ đó giúp học sinh nhớ lâu các kiến thức và biết cách vận dụng công thức vào các bài tập cần giải. Không chỉ vậy còn giúp giáo viên không ngừng tìm tòi, sáng tạo, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ của bản thân.. Nhằm phát huy của vai trò của người giáo viên trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, là người định hướng việc học, hình thành kĩ năng vận dụng kiến thức chuyên môn giải quyết vấn đề, nâng cao năng lực tự học của học sinh . Việc giúp học sinh có phương pháp giải bài tập một cách đúng đắn sẽ giúp các em cảm thấy việc học môn KHTN dễ dàng hơn. Các em sẽ càng yêu thích môn học, đó là một động lực để phát huy triệt để tính tích cực, chủ động và sáng tạo, niềm say mê học tập của học sinh. Từ đó giúp nâng cao chất lượng các tiết học, qua đó nâng cao chất lượng giáo dục phân môn vật lý 7 nói riêng và môn KHTN lớp 7 nói chung. 6 1.1. Bài tập là phương thức hữu hiệu để củng cố và mở rộng kiến thức. Môn KHTN là môn học với nhiều kiến thức là lý thuyết trừu tượng. Chính vì vậy việc nắm bắt được kiến thức chuyên môn cũng như hiểu rõ được bản chất của các khái niệm, các hiện tượng là điều quan trọng. Trong thực tế, mỗi khái niệm, mỗi định luật lại có những biểu hiện rất cụ thể, đơn giản thông qua các hiện tượng thường ngày và bài tập là sự ghi chép lại mỗi hiện tượng đó. Khi giải bài tập, mỗi học sinh phải vận dụng những kiến thức đó để giải, qua đó nắm được bản chất của kiến thức, của các hiện tượng đã được học, thấy được sự đa dạng muôn hình muôn vẻ của các hiện tượng đang diễn ra trong thực tế và rèn luyện cho mình kỹ năng quan sát, phân tích các hiện tượng thú vị đã và đang xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Bài tập sẽ là phương thức khắc họa kiến thức đơn giản và hữu hiệu nhất, từ đó giảm đi sự e dè, nhàm chán của mỗi học sinh khi học bộ môn KHTN nói chung hay phân môn Vật lý nói riêng. 1.2. Bài tập giúp rèn luyện kỹ năng tự vận dụng kiến thức chuyên môn vào giải quyết các vấn đề thực tế, tự đánh giá và kiểm tra kiến thức. Khi tiếp cận với mỗi bài tập, học sinh phải tự bản thân mình phân tích các dữ liệu của đề bài đưa ra, tự đào sâu lại những kiến thức đã học, xây dựng những lập luận để từ đó đưa ra phương án giải quyết tình huống tốt nhất. Chính vì vậy bài tập không chỉ là phương tiện tốt nhất để mỗi học sinh rèn luyện kĩ năng vận dụng những kiến thức chuyên môn đã được học để phân tích và giải quyết các tình huống thực tế, mà còn là hình thức rèn luyện khả năng tự học, tự kiểm tra và đánh giá kiến thức của bản thân, xây dựng cho mình đức tính tự tìm tòi và học hỏi, qua đó hình thành cho mỗi học sinh kĩ xảo khi tiếp xúc với các bài tập. 1.3. Bài tập là phương tiện tốt nhất để kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh. Sự đa dạng của bài tập, từ trắc nghiệm đến tự luận, từ áp dụng công thức để tính đến suy luận logic, từ nhận biết đến vận dụng chính là công cụ để giáo viên kiểm tra, đánh giá được mức độ nắm vững kiến thức của từng học sinh, qua đó phân loại được các đối tượng học sinh và có phương pháp giảng dạy phù hợp đối với từng đối tượng để nâng cao chất lượng giáo dục. 8 Sau khi ở phân môn Vật lý các em được học về ý nghĩa của tốc độ, công thức tính và đơn vị. Vào nửa đầu tháng 9 tôi đã tiến hành khảo sát kết quả học tập của các em bằng bài kiểm tra và từ kết quả ở bảng số liệu trên tôi nhận thấy khả năng học tập và tiếp nhận kiến thức của các em còn rất kém. Tỷ lệ các em chưa đạt (dưới 5 điểm) vẫn còn nhiều, điểm tốt (lớn hơn 8 là rất ít). 2.2.2. Nguyên nhân Do tư duy của HS còn hạn chế nên khả năng tiếp thu bài còn chậm, lúng túng từ đó không nắm chắc các kiến thức, kĩ năng cơ bản, các hệ quả do đó khó mà giải được bài tập về tính tốc độ, quãng đường, thời gian. Đa số các em chưa có định hướng chung về phương pháp học lý thuyết, chưa biến đổi được công thức. Có những em nắm vững lý thuyết nhưng không có khả năng đọc, tìm hiểu, phân tích đề bài không thể nào làm tốt được các bài tập suy luận, dẫn đến tình trạng áp dụng công thức một cách máy móc; hoặc trong nhiều trường hợp các em còn chưa biết cách trình bày một bài giải sao cho hợp lý mà chỉ quan tâm đến đáp án cuối cùng. Thời gian dành cho phân môn Vật lý ít, đặc biệt là thời gian dành cho tiết bài tập rất hạn chế. Đa số thời gian các tiết học là học lý thuyết, thời gian cho phần vận dụng, luyện tập chưa đủ để rèn kĩ năng giải bài tập cho các em. Chính vì vậy, các em chưa được rèn luyện hết với các dạng bài tập, chưa nắm vững và hệ thống được các phương pháp giải bài tập. Chính thực trạng đó dẫn đến việc hầu hết các em học sinh chỉ “học suông” các lý thuyết mà thiếu đi kỹ năng làm bài tập, không đáp ứng được yêu cầu của bộ môn. Kiến thức toán học còn hạn chế. 2.2.3. Một số nhược điểm của HS trong quá trình giải bài bài tập. Đọc đề hấp tấp, qua loa, khả năng phân tích đề, tổng hợp đề còn yếu, lượng thông tin cần thiết để giải toán còn hạn chế. Một số HS chưa nắm được kí hiệu các đại lượng. Một số khác không biết biến đổi công thức toán. Chưa có thói quen định hướng cách giải một cách khoa học trước những bài toán về tính tốc độ, quãng đường, thời gian. 10 1 m/s = 3,6 km/h ; 1km/h = 1 m/s 3,6 Sơ đồ tư duy bài học 1.2. Bài: Đo tốc độ. Để đo tốc độ chuyển động, cần đo độ dài và đo thời gian. Để đo thời gian có thể sử dụng đồng hồ bấm giây hoặc cổng quang điện và đồng hồ đo thời gian hiện số. Các thiết bị bắn tốc độ được sử dụng để đo tốc độ của các phương tiện giao thông đường bộ. Sơ đồ tư duy bài học 12 1.5. Sơ đồ tư duy tổng kết chương III – Tốc độ. 14 tròn chữ cái trước một câu được chọn hoặc ghi lại chữ cái trước câu. Tùy theo phần dẫn yêu cầu mà phần trả lời chỉ có thể là một đáp án duy nhất đáp án đúng và có thể toàn bộ đáp án là đúng hoặc sai ( trường hợp này rất ít xảy ra). Ví dụ: Câu 1. Công thức tính tốc độ là: t s s A. v s. t B. v C. v D. v s t t 2 Câu 2. Ô tô chạy trên đường cao tốc có biển báo tốc độ như H11.2 với tốc độ v nào sau đây là an toàn? A. Khi trời mưa: 100 km/h < v < 120 km/h. B. Khi trời nắng: 100 km/h < v < 120 km/h. C. Khi trời mưa: 100 km/h < v < 110 km/h. D. Khi trời nắng: v > 120 km/h. Câu 3. Đơn vị nào sau đây không phải đơn vị của tốc độ? A. m/s B. km/h C. s/cm D. km/min Câu 4: Dụng cụ nào dùng để đo tốc độ của các phương tiện giao thông như ô tô, xe máy? A. Tốc kế B. Nhiệt kế C. Đồng hồ bấm giây D. Thước Đáp án: Câu 1. C; Câu 2. B; Câu 3. C; Câu 4. A. 3.1.2. Dạng: Câu điền khuyết. Câu điền khuyết là những câu còn lại một hay nhiều chỗ trống mà các em phải lựa chọn từ, cụm từ thích hợp để điền vào được câu có nội dung đúng. Với dạng này các em phải đọc hết cả câu rồi mới điền vào. Ví dụ: Câu 1. Tìm số thích hợp để điền vào chỗ trống: a) 10 m/s = ?... km/h. b) ?... km/h = 15 m/s. c) 45 km/h = ?... m/s. d) 120 cm/s = ?... m/s = ?... km/h. 16 3.1.4. Dạng: Câu ghép đôi. Dãy bên trái là các câu chưa hoàn chỉnh, dãy bên phải là phần trả lời gồm các câu trả lời hoặc các mệnh đề để hoàn chỉnh câu dẫn. Các em phải đọc hết phần dẫn và phần trả lời rồi ghép chúng lại bằng một gạch nối: câu dẫn với câu trả lời thích hợp để câu có nội dung đúng. Ví dụ: Ghép một nội dung ở cột A với một nội dung phù hợp ở cột B. A B 1. Tốc độ chuyển động cho a) đơn vị độ dài và đơn vị thời gian. biết b) m/s và km/h. 2. Tốc độ chuyển động được c) sự nhanh, chậm của chuyển xác định bằng động. 3. Đơn vị tốc độ phụ thuộc d) quãng đường đi được trong một vào đơn vị thời gian. 4. Đơn vị của tốc độ là Đáp án: 1 - c; 2 - d; 3 – a; 4 – b. 3.2. Loại bài tập tự luận. 3.2.1. Dạng: Bài tập định tính. Đây là loại bài tập mà các em phải tự viết trọn vẹn câu trả lời. Những bài tập loại này thường khó vì ngoài việc nắm chắc nội dung Vật lý của câu hỏi và câu trả lời, các em còn phải biết diễn đạt các câu trả lời một cách ngắn gọn nhưng phải đầy đủ và đúng ngữ pháp. Ví dụ: Câu 1. Tại sao cách đo tốc độ trong phòng thí nghiệm không phải là cách đo trực tiếp? Đáp án: Vì chỉ đo được trực tiếp các đại lượng quãng đường và thời gian, s còn muốn biết tốc độ phải thông qua công thức liên hệ v mới tính được. Nên t cách đo đó gọi là cách đo gián tiếp. Câu 2. Hãy mô tả các bước để đo tốc độ chuyển động thẳng của một bạn học sinh chạy cự li ngắn trong giờ kiểm tra môn Thể dục. 18
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_giai_bai_tap_chuong_iii_mo.pdf