Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh Lớp 6 thông qua việc xây dựng sơ đồ (bộ sách Kết nối tri thức)
Tri thức khoa học toàn cầu ngày nay luôn thay đổi và nhanh chóng trở nên cũ đi; do đó, việc dạy học cũng cần có sự cập nhật, đổi mới liên tục. Để giúp cho học sinh nắm được những kiến thức khoa học cơ bản đó, quá trình dạy học cần phải chuyển hướng từ việc tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực. Đây là việc làm vô cùng cấp bách và cần thiết.
Nghị quyết trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung cách dạy học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực….”. Định hướng trên đã chỉ rõ phương hướng dạy học trong thời đại ngày nay là cần chú trọng tới kĩ năng, năng lực của người học cứ không phải chỉ tập trung vào nội dung. Thêm vào đó, quan điểm xây dựng chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn “lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe”.
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc dạy học tiếng mẹ đẻ nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng là rèn luyện cho học sinh cần sử dụng thành thạo các kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Trong bốn kĩ năng ấy, càng học lên cao, kĩ năng đọc và hiểu càng được chú ý hơn cả. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng học sinh năng lực của chủ thể thẩm mĩ. Cùng với đó, Bộ Giáo dục – Đào tạo khẳng định “chương trình được xây dựng theo hướng mở”, đồng thời, hình thức kiểm tra đánh giá sẽ linh hoạt hơn, không lấy ngữ liệu trong sách giáo khoa. Do đó hiểu bản chất môn Văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất dạy học văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể của học sinh.
Văn học dân gian Việt Nam là một kho tàng phong phú chứa đựng tinh hoa nghệ thuật và giá trị nhân văn của dân tôc ta từ bao đời. Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, với cả 3 bộ Sách giáo khoa Cánh diều, Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo, việc dạy học văn bản văn học dân gian nói chung, và hẹp hơn và mảng truyện cổ tích luôn được chú trọng. Đối với bộ sách Kết nối tri thức với cuộc
sống, mảng truyện cổ tích được học ở học kì II với các tác phẩm: Thạch Sanh, Cây khế (truyện cổ tích Việt Nam), Vua chích chòe (truyện cổ tích nước ngoài) và văn bản đọc thêm Sọ Dừa (truyện cổ tích Việt Nam).
Theo các hướng dạy học cũ, những văn bản này đa số được định hướng dạy theo nhiều phương pháp khác nhau, song thường chú trọng vào nội dung mà ít chú ý định hướng kĩ năng, năng lực cho người đọc. Phần đa học sinh chỉ đọc – hiểu văn bản dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ chưa tự hình thành cho mình năng lực đọc hiểu. Với chương trình GDPT 2018, việc định hướng phát triển kĩ năng, năng lực cho HS đã được quan tâm, chú trọng hơn. Điều này ảnh hưởng nhiều tới sự thay đổi phương pháp dạy học của giáo viên, làm sao để các em được trang bị nhiều kĩ năng khi gặp dạng bài tập tương tự.
Năm học 2021 - 2022, tôi có được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy môn Ngữ Văn khối 6. Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy sau khi học xong các câu chuyện cổ tích, các em thường ít có kĩ năng nhớ hết được tên nhân vật, các chi tiết, sự kiện, cốt truyện... Học sinh thường thiếu kĩ năng tự điều chỉnh, kiểm soát hành động đọc của mình để tự đọc văn bản. Do vậy, khi cho học sinh tiếp cận một văn bản khác ngay cùng thể loại, chưa chắc các em đã tự định hướng cách đọc hiểu văn bản ấy một cách thuần thục. Xuất phát từ thực tế học của học sinh và với mong muốn giúp cho học sinh lớp 6 hình thành và phát triển được năng lực đọc hiểu truyện cổ tích, rộng hơn nữa là các loại văn bản khác, tôi đã trăn trở và viết đề tài: Phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh lớp 6 thông qua việc xây dựng sơ đồ.
Nghị quyết trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung cách dạy học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực….”. Định hướng trên đã chỉ rõ phương hướng dạy học trong thời đại ngày nay là cần chú trọng tới kĩ năng, năng lực của người học cứ không phải chỉ tập trung vào nội dung. Thêm vào đó, quan điểm xây dựng chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Ngữ văn “lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực và bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp học, lớp học. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về tiếng Việt và văn học được hình thành qua hoạt động dạy học tiếp nhận và tạo lập văn bản; phục vụ trực tiếp cho yêu cầu rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe”.
Một trong những mục tiêu quan trọng của việc dạy học tiếng mẹ đẻ nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng là rèn luyện cho học sinh cần sử dụng thành thạo các kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Trong bốn kĩ năng ấy, càng học lên cao, kĩ năng đọc và hiểu càng được chú ý hơn cả. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng học sinh năng lực của chủ thể thẩm mĩ. Cùng với đó, Bộ Giáo dục – Đào tạo khẳng định “chương trình được xây dựng theo hướng mở”, đồng thời, hình thức kiểm tra đánh giá sẽ linh hoạt hơn, không lấy ngữ liệu trong sách giáo khoa. Do đó hiểu bản chất môn Văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu đúng thực chất dạy học văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể của học sinh.
Văn học dân gian Việt Nam là một kho tàng phong phú chứa đựng tinh hoa nghệ thuật và giá trị nhân văn của dân tôc ta từ bao đời. Theo chương trình giáo dục phổ thông 2018, với cả 3 bộ Sách giáo khoa Cánh diều, Kết nối tri thức với cuộc sống, Chân trời sáng tạo, việc dạy học văn bản văn học dân gian nói chung, và hẹp hơn và mảng truyện cổ tích luôn được chú trọng. Đối với bộ sách Kết nối tri thức với cuộc
sống, mảng truyện cổ tích được học ở học kì II với các tác phẩm: Thạch Sanh, Cây khế (truyện cổ tích Việt Nam), Vua chích chòe (truyện cổ tích nước ngoài) và văn bản đọc thêm Sọ Dừa (truyện cổ tích Việt Nam).
Theo các hướng dạy học cũ, những văn bản này đa số được định hướng dạy theo nhiều phương pháp khác nhau, song thường chú trọng vào nội dung mà ít chú ý định hướng kĩ năng, năng lực cho người đọc. Phần đa học sinh chỉ đọc – hiểu văn bản dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ chưa tự hình thành cho mình năng lực đọc hiểu. Với chương trình GDPT 2018, việc định hướng phát triển kĩ năng, năng lực cho HS đã được quan tâm, chú trọng hơn. Điều này ảnh hưởng nhiều tới sự thay đổi phương pháp dạy học của giáo viên, làm sao để các em được trang bị nhiều kĩ năng khi gặp dạng bài tập tương tự.
Năm học 2021 - 2022, tôi có được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy môn Ngữ Văn khối 6. Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy sau khi học xong các câu chuyện cổ tích, các em thường ít có kĩ năng nhớ hết được tên nhân vật, các chi tiết, sự kiện, cốt truyện... Học sinh thường thiếu kĩ năng tự điều chỉnh, kiểm soát hành động đọc của mình để tự đọc văn bản. Do vậy, khi cho học sinh tiếp cận một văn bản khác ngay cùng thể loại, chưa chắc các em đã tự định hướng cách đọc hiểu văn bản ấy một cách thuần thục. Xuất phát từ thực tế học của học sinh và với mong muốn giúp cho học sinh lớp 6 hình thành và phát triển được năng lực đọc hiểu truyện cổ tích, rộng hơn nữa là các loại văn bản khác, tôi đã trăn trở và viết đề tài: Phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh lớp 6 thông qua việc xây dựng sơ đồ.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh Lớp 6 thông qua việc xây dựng sơ đồ (bộ sách Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh Lớp 6 thông qua việc xây dựng sơ đồ (bộ sách Kết nối tri thức)

MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1 I. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1 II. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu...................................................... 2 III. Cấu trúc của sáng kiến kinh nghiệm ........................................................................ 3 B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH ....................................................................................... 4 CHƯƠNG I: ĐẶC TRƯNG THI PHÁP TRUYỆN CỔ TÍCH .......................................4 I. Khái niệm truyện cổ tích .............................................................................................4 II. Đặc trưng thi pháp truyện cổ tích .............................................................................. 4 CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU TRUYỆN CỔ TÍCH ...............7 I. Dạy học phát triển năng lực........................................................................................ 7 II. Một số biện pháp giúp học sinh phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích.................. 9 2.1. Bồi dưỡng và phát triển năng lực phát hiện và đánh giá nhân vật........................9 2.2. Rèn kĩ năng phát hiện các chi tiết nghệ thuật, từ đó phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích...............................................................................................................11 2.3. Rèn kĩ năng phát hiện các sự việc, sự vật, từ đó phát triển năng lực tiếp nhận truyện cổ tích...............................................................................................................12 2.4. Rèn kĩ năng tóm tắt cốt truyện để phát triển năng lực cảm thụ văn học.............15 CHƯƠNG III: THỰC NGHIỆM ................................................................................... 17 I. Địa điểm thực nghiệm ...............................................................................................17 II. Thời gian thực nghiệm .............................................................................................17 III. Khách thể thực nghiệm ...........................................................................................17 IV. Cách thức thực nghiệm.......................................................................................... 17 V. Kết quả thực nghiệm................................................................................................22 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ............................................................................23 I. Kết luận..................................................................................................................... 23 II. Khuyến nghị.............................................................................................................24 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................. PHỤ LỤC............................................................................................................................ 2 mảng truyện cổ tích luôn được chú trọng. Đối với bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống, mảng truyện cổ tích được học ở học kì II với các tác phẩm: Thạch Sanh, Cây khế (truyện cổ tích Việt Nam), Vua chích chòe (truyện cổ tích nước ngoài) và văn bản đọc thêm Sọ Dừa (truyện cổ tích Việt Nam). Theo các hướng dạy học cũ, những văn bản này đa số được định hướng dạy theo nhiều phương pháp khác nhau, song thường chú trọng vào nội dung mà ít chú ý định hướng kĩ năng, năng lực cho người đọc. Phần đa học sinh chỉ đọc – hiểu văn bản dưới sự hướng dẫn của giáo viên chứ chưa tự hình thành cho mình năng lực đọc hiểu. Với chương trình GDPT 2018, việc định hướng phát triển kĩ năng, năng lực cho HS đã được quan tâm, chú trọng hơn. Điều này ảnh hưởng nhiều tới sự thay đổi phương pháp dạy học của giáo viên, làm sao để các em được trang bị nhiều kĩ năng khi gặp dạng bài tập tương tự. Năm học 2021 - 2022, tôi có được Ban giám hiệu nhà trường phân công dạy môn Ngữ Văn khối 6. Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy sau khi học xong các câu chuyện cổ tích, các em thường ít có kĩ năng nhớ hết được tên nhân vật, các chi tiết, sự kiện, cốt truyện... Học sinh thường thiếu kĩ năng tự điều chỉnh, kiểm soát hành động đọc của mình để tự đọc văn bản. Do vậy, khi cho học sinh tiếp cận một văn bản khác ngay cùng thể loại, chưa chắc các em đã tự định hướng cách đọc hiểu văn bản ấy một cách thuần thục. Xuất phát từ thực tế học của học sinh và với mong muốn giúp cho học sinh lớp 6 hình thành và phát triển được năng lực đọc hiểu truyện cổ tích, rộng hơn nữa là các loại văn bản khác, tôi đã trăn trở và viết đề tài: Phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh lớp 6 thông qua việc xây dựng sơ đồ. II. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 1. Phạm vi và đối tượng - Học sinh lớp 6 trường Trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội. - Đề tài tập trung trình bày một số biện pháp dựng sơ đồ tác Thạch Sanh, Cây khế và Vua chích chòe (Bộ Kết nối tri thức với đời sống) nhằm phát triển năng lực đọc hiểu bộ môn Ngữ Văn cho học sinh khối 6 trong thời gian nghiên cứu từ tháng 8/2021 và những kết quả thực nghiệm đạt được trong thời gian từ tháng 2/2021 đến tháng 4/2022. 2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp: tiến hành phân tích các tài liệu liên quan đến việc phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích Việt Nam cho học sinh lớp 6; từ đó tổng hợp lại để xây dựng thành một hệ thống khái niệm, đặc điểm phù hợp phục vụ cho đề tài nghiên cứu. 4 B. PHẦN NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG I: ĐẶC TRƯNG THI PHÁP TRUYỆN CỔ TÍCH I. Khái niệm truyện cổ tích Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa, truyện cổ tích “là một thể loại truyện dân gian nảy sinh từ xã hội nguyên thủy nhưng chủ yếu phát triển trong xã hội có giai cấp với chức năng chủ yếu là phản ánh và lí giải những vấn đề xã hội, những số phận khác nhau của con người trong cuộc sống muôn màu, muôn vẻ khi đã có chế độ tư hữu tài sản, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh xã hội quyết liệt”. Giáo trình “Lịch sử văn học Việt Nam” đưa ra cách định nghĩa khác: “Truyện cổ tích là loại truyện xuất hiện sớm từ cổ xưa, chủ yếu do các tầng lớp bình dân sáng tác, trong đó óc tưởng tượng (bao gồm cả huyễn tưởng) chiếm phần quan trọng, tuy rằng huyễn tưởng ở đây đã khác hẳn với yếu tổ huyễn tưởng trong thần thoại. Có thể có yếu tố hoang đường, kì diệu hoặc không. Truyện cổ tích trình bày – với một phong cách thường kết hợp với hiện thực và lãng mạn – cuộc sống với những con người trong những tương quan của xã hội có giai cấp”. Sách giáo khoa Ngữ Văn 10, tập I đưa ra định nghĩa truyện cổ tích là “tác phẩm tự sự dân gian mà cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ định, kể về số phận con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và lạc quan của nhân dân lao động”. Sách giáo khoa Ngữ Văn 6, tập II (Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) nêu khái niệm: “Truyện cổ tích là loại truyện dân gian có nhiều yếu tố hư cấu, kì ảo, kể về số phận và cuộc đời của các nhân vật trong những mối quan hệ xã hội. Truyện cổ tích thể hiện cái nhìn về hiện thực, bộc lộ quan niệm đạo đức, lẽ công bằng và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn của người lao động xưa”. Như vậy có nhiều cách định nghĩa khác nhau về cùng thể loại truyện này. Để phù hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh lớp 6, trong đề tài này, chúng tôi chọn khái niệm trong sách giáo khoa Ngữ Văn 6 (Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) làm cơ sở giúp nhận diện truyện cổ tích, từ đó định hướng các biện pháp phát triển năng lực đọc hiểu truyện cổ tích cho học sinh lớp 6. II. Đặc trưng thi pháp truyện cổ tích Trong tiếng Nga, từ “cổ tích” được gọi là Xkazka, đồng nghĩa với sự bịa đặt. Điều này nên được hiểu là yếu tố tưởng tượng giữ vai trò chủ chốt, quan trọng trong thể loại truyện dân gian này. Nếu tưởng tượng trong thần thoại và truyền thuyết gắn liền với niềm tin của người kể, người nghe, đồng thời được dựa trên nền tảng các yếu tố lịch sử có thực, thì tưởng tượng trong truyện cổ tích là một sự hư cấu có chủ tâm. Truyện cổ tích thực hiện chức năng giáo dục thông qua cảm hứng nghệ thuật, “giáo dục bằng hình thức nêu gương”, gửi tới độc giả niềm tin vào lẽ công bằng trên đời 6 tuyệt đối. Truyện cổ tích sinh hoạt cũng lí tưởng hóa nhân vật của mình nhưng theo một kiểu khác: để họ tự lo liệu lấy số phận, khẳng định phẩm chất của họ thông qua sự ứng xử cụ thể với bản thân họ. 4. Không gian, thời gian Thế giới trong truyện cổ tích không giống với thế giới thực tại của con người, cũng không giống với thế giới của các thần linh trong thàn thoại. Đó là một thế giới riêng, “thế giới cổ tích” tồn tại trong trí tưởng tượng của người kể và người nghe truyện. Nó rộng lớn, mênh mông, bao gồm nhiều “cõi” như “cõi trần”, “cõi âm”, Thủy cung Thời gian và không gian trong truyện cổ tích đều được quan niệm và diễn tả phù hợp với thế giới cổ tích – một thế giới phong phú, phức tạp và đầy mâu thuẫn (giữa cái đúng – cái sai, cái thực – cái ảo, ). Thời gian cổ tích khi thì trôi rất nhanh, khi thì chậm lại tựa hồ như không có. Nhiều nhân vật trong cổ tích cứ “trẻ mãi không già”. Không gian trong cổ tích cũng vậy, khi thì rất cụ thể, thậm chí có cả địa danh xác định, khi thì rất mơ hồ, chỉ có tính chất tượng trưng (như nhân vật đi vào rừng sâu, đến một con suối, ngồi ở gốc đa) Lời kể trong truyện cổ tích thường mở đầu bằng những từ ngữ chỉ không gian, thời gian không xác định để mang tính chất khái quát, phiếm chỉ. Tùy thuộc vào bối cảnh, người kể chuyện có thể thay đổi một số chi tiết trong lời kể, tạo ra nhiều bản kể khác nhau ở cùng một cốt truyện (dị bản). 5. Nghệ thuật Nét tiêu biểu, đặc sắc nhất của truyện cổ tích chính là yếu tố nghệ thuật tưởng tượng kì ảo. Trong điều kiện xã hội mà con người bị cột chặt vào tổ chức gia đình một cách ghê gớm như xã hội của truyện cổ tích thì việc đưa con người ra khỏi vòng cương tỏa ấy – dù chỉ là trong tưởng tượng cũng hết sức khó khăn. Để khắc phục điều này, trí tưởng tượng dân gian đã hoạt động rất tích cực, khai thác nhiều nguồn tài liệu khác nhau để tạo ra hệ thống nhân vật phụ như Tiên, Bụt, chim thần, hoàng tử, công chúa Tuy có vai trò và tính chất khác nhau nhưng những nhân vật phụ ấy đều gắn bó chặt chẽ với việc thực hiện và thể hiện tính chất thẩm mĩ của nhân dân ở trong truyện cổ tích. Các lực lượng thần kì này giống như chiếc cầu kì diệu đã nối liền cuộc đời thực với cuộc đời mộng tưởng của nhân vật chính diện, để nó có thể trở thành một thể thống nhất trong trí tưởng tượng đặc biệt của các tác giả truyện cổ tích. Ở truyện cổ tích, khi nào xung đột phát triển đến cao đội thì lực lượng thần kì mới xuất hiện. Đó có thể là người, là thần, cũng có thể là các đồ vật nhằm hỗ trợ nhân vật chính diện giải quyết những khó khăn, bế tắc. Tất nhiên cũng có những truyện, yếu tố thần kì không tham gia vào việc giải quyết những xung đột cơ bản trong truyện mà chỉ góp phần làm tăng thêm tính chất li kì, hấp dẫn của câu chuyện. 8 (3) Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác, biến lớp học thành môi trường giao tiếp giáo viên – học sinh và ngược lại nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ học tập. (4) Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiền trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập đánh giá. Chú trọng phát triển kĩ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải/ đáp án mẫu, theo hướng dẫn hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót. Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt giữa đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học với đánh giá năng lực như sau: Tiêu chí Đánh giá kiến thức, kĩ năng Đánh giá năng lực Mục đích Xác định việc đạt kiến Đánh giá khả năng vận dụng chủ yếu thức, kĩ năng theo mục tiêu của các kiến thức, kĩ năng đã học của nhất chương trình dạy học. học sinh vào giải quyết các vấn Đánh giá, xếp hạng giữa đề trong thực tiễn của cuộc sống. những người học với nhau. Vì sự tiến bộ của người học Đánh giá, xếp hạng giữa so với chính họ. những người học với nhau. Ngữ cảnh Gắn với nội dung học tập (những Gắn với ngữ cảnh học tập và thực đánh giá kiến thức, kĩ năng, thái độ) được tiễn cuộc sống của học sinh. học trong nhà trường. Nội dung Những kiến thức, kĩ năng, Những kiến thức, kĩ năng đánh giá thái độ ở một môn học. thái độ ở nhiều môn học, nhiều hoạt động giáo dục và những trải Quy chuẩn theo việc người nghiệm của bản thân học sinh học có đặt được hay không một trong cuộc sống xã hội (tập trung nội dung đã được học. vào năng lực thực hiện). Quy chuẩn theo các mức độ phát triển năng lực của người học. Công cụ Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ trong Ra nhiệm vụ, bài tập trong tình đánh giá tình huống theo lí thuyết hoặc tình huống, bối cảnh thực. huống thực. Thời điểm Thường diễn ra ở những thời điểm Đánh giá mọi thời điểm của quá đánh giá nhất định trong quá trình dạy học, trình dạy học, chú trong đến đánh đặc biết là trước và sau khi dạy. giá trong khi học. Kết quả Năng lực của người học phụ Năng lực của người học phụ
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_hat_trien_nang_luc_doc_hieu_truyen_co.pdf