Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống

Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông mới nêu rõ mục tiêu: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.” Trong đó mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông cụ thể hoá mục tiêu giáo dục phổ thông, giúp học sinh làm chủ kiến thức phổ thông, biết vận dụng hiệu quả kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sống và tự học suốt đời, có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp, biết xây dựng và phát triển hài hoà các mối quan hệ xã hội, có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú, nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại. Hiện nay, chúng ta thường hay nói đến việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của học sinh. Trong đó, yếu tố được cho là quyết định chính là sự tương tác đồng bộ của các thành tố trong các phương pháp dạy học tích cực: người dạy, người học, học liệu, môi trường... Việc nắm rõ ưu thế của từng phương pháp dạy học trên cơ sở phân hóa đối tượng, phân tích căn cứ về điều kiện, loại hình năng lực và phẩm chất cần phát triển ở người học từ đó lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học phù hợp, tăng cường hoạt động trải nghiệm sáng tạo để đáp ứng mục tiêu giáo dục mới. Phẩm chất và năng lực của người học sẽ được hình thành và phát triển qua các hoạt động giao lưu, kết nối, tương tác với thực tiễn đời sống để khơi dậy hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng sống, nâng cao hiểu biết về cuộc sống xung quanh. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 có nội dung cốt lõi của môn học bao gồm các mạch kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết yếu về tiếng Việt và văn học, đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng cấp học; được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp.
- Giai đoạn giáo dục cơ bản: Môn Ngữ văn (Tiếng Việt) giúp học sinh sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống và học tập tốt các môn học và hoạt động giáo dục khác; hình thành và phát triển năng lực văn học, một biểu hiện của năng lực thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để học sinh phát triển về tâm hồn, nhân cách…

- Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Môn Ngữ văn củng cố các mạch nội dung của giai đoạn giáo dục cơ bản, giúp học sinh nâng cao năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học, nhất là tiếp nhận văn bản văn học; tăng cường kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp hơn về nội dung và kĩ thuật viết; trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết về văn học. Ngoài ra, trong mỗi năm học, những học sinh có định hướng khoa học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập. Các chuyên đề này nhằm tăng cường kiến thức về văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Theo chương trình Ngữ văn 10, Phân bổ số tiết cho các chuyên đề học tập ở mỗi lớp như sau:
- Chuyên đề 1: Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học dân gian 10 tiết.
- Chuyên đề 2. Sân khấu hoá tác phẩm văn học 15 tiết.
- Chuyên đề 3. Đọc, viết và giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặt 1 tiểu thuyết 10 tiết.
Với những lí do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập Ngữ văn 10” để nghiên cứu nhằm đóng góp thêm những ý kiến giúp giáo viên và học sinh có những cơ sở tiến hành việc dạy học các chuyên đề Ngữ văn ở lớp 10 nói riêng và ở cấp THPT một cách có hiệu quả nhất. Qua đây, chúng tôi cũng mong muốn góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và tạo nên hứng thú cho học sinh khi học môn Ngữ văn.

pdf 55 trang Thanh Ngân 02/12/2024 300
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống
 - Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Môn Ngữ văn củng cố các mạch 
nội dung của giai đoạn giáo dục cơ bản, giúp học sinh nâng cao năng lực ngôn ngữ và 
năng lực văn học, nhất là tiếp nhận văn bản văn học; tăng cường kĩ năng tạo lập văn bản 
nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp hơn về nội dung và kĩ thuật viết; trang bị 
một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc 
và viết về văn học. Ngoài ra, trong mỗi năm học, những học sinh có định hướng khoa 
học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập. Các chuyên đề này 
nhằm tăng cường kiến thức về văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào 
thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Theo 
chương trình Ngữ văn 10, Phân bổ số tiết cho các chuyên đề học tập ở mỗi lớp như sau: 
 - Chuyên đề 1: Tập nghiên cứu và viết báo cáo về một vấn đề văn học dân gian 
10 tiết. 
 - Chuyên đề 2. Sân khấu hoá tác phẩm văn học 15 tiết. 
 - Chuyên đề 3. Đọc, viết và giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặt 1 tiểu 
thuyết 10 tiết. 
 Với những lí do trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một 
tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết cho học sinh theo chuyên đề học tập 
Ngữ văn 10” để nghiên cứu nhằm đóng góp thêm những ý kiến giúp giáo viên và học 
sinh có những cơ sở tiến hành việc dạy học các chuyên đề Ngữ văn ở lớp 10 nói riêng 
và ở cấp THPT một cách có hiệu quả nhất. Qua đây, chúng tôi cũng mong muốn góp 
phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học và tạo nên hứng thú cho học sinh khi học 
môn Ngữ văn. 
 2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 
 Đổi mới dạy học Ngữ văn THPT, chuyển từ dạy nội một bài, một môn, một phân 
môn sang dạy tích hợp nội môn, liên môn. Thông qua đề tài, tôi muốn học sinh có niềm 
đam mê, hứng thú đối với môn học Ngữ văn trong nhà trường, từ đó thay đổi nhận thức 
và kết quả học tập theo chiều hướng tích cực; giúp các em được “học đi đôi với hành” 
nhằm phát triển toàn diện năng lực của học sinh, phát huy năng lực phẩm chất cần có 
của học sinh từ đó tạo hứng thú học tập để từ đó nâng cao năng lực và rèn luyện kỹ 
năng, trau dồi phẩm chất cho học sinh. 
 Qua kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tôi nhận thấy các phương pháp dạy học 
tích cực giúp học sinh liên hệ đến các vấn đề liên quan một cách cụ thể để các em sử 
dụng vốn kiến thức, phát huy được kinh nghiệm sống của bản thân. Các em đã thể hiện 
bằng hành động, việc làm, thái độ tích cực. Học sinh biết phân tích, lí giải, tranh luận, 
giải quyết các tình huống, các sự kiện thực tế từ đó giúp các em học sinh yêu thích các 
tác phẩm văn học. 
 2 5. Đóng góp mới của đề tài 
 Ngày nay con người có nhiều cách để tiếp cận, bổ sung, lĩnh hội nguồn thông tin 
kiến thức phục vụ cho cuộc sống. Hàng loạt các loại hình công nghệ thông tin xuất hiện 
như: truyền hình, báo chí, mạng internet phủ sóng rộng khắp hấp dẫn người xem. Văn 
hóa nghe nhìn lên ngôi dần chiếm ưu thế so với văn hóa đọc. Nếu trước đây đọc sách là 
một thú vui, sở thích, thói quen của nhiều người thì ngày nay thói quen ấy đang có nguy 
cơ mất dần. Điều đó ảnh hưởng lớn đến trình độ nhận thức, kỹ năng, phẩm chất, nhân 
cách của con người Việt Nam. Vì vậy, tôi thiết nghĩ Một số giải pháp nâng cao kỹ năng 
đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết theo chuyên 
đề học tập nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập thơ, một 
tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết là việc làm có ý nghĩa thiết thực góp phần tạo ra 
thú vui, sở thích, thói quen đọc sách cũng như đổi mới phương pháp dạy học theo 
định hướng phát triển năng lực học sinh. 
 4 học tập và đời sống. Môn Ngữ Văn cũng giúp học sinh có khả năng suy ngẫm về bản 
thân, tự nhận thức, tự học và tự điều chỉnh để hoàn thiện bản thân. 
 Môn Ngữ văn là môn học đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển 
năng lực giao tiếp và hợp tác cho học sinh. Qua môn Ngữ văn, học sinh biết xác định 
mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung, kiểu văn bản và thể loại, ngôn ngữ và các phương 
tiện giao tiếp khác phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp để thảo luận, lập luận, 
phản hồi, đánh giá về các vấn đề trong học tập và đời sống; biết tiếp nhận các kiểu văn 
bản và thể loại đa dạng; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao 
tiếp. 
 Cũng qua môn Ngữ văn, học sinh phát triển khả năng nhận biết, thấu hiểu và đồng 
cảm với suy nghĩ, tình cảm, thái độ của người khác; biết sống hoà hợp và hoá giải các 
mâu thuẫn; thiết lập và phát triển mối quan hệ với người khác; phát triển khả năng làm 
việc nhóm, làm tăng hiệu quả hợp tác. 
 Năng lực giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn được thể hiện ở khả năng đánh 
giá nội dung của văn bản, biết làm rõ thông tin, ý tưởng mới và phức tạp từ các nguồn 
thông tin khác nhau; biết phân tích các nguồn thông tin độc lập để thấy được khuynh 
hướng, độ tin cậy của những thông tin và ý tưởng mới; biết quan tâm tới các chứng cứ 
khi nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng; biết đánh giá vấn đề, tình huống dưới những 
góc nhìn khác nhau. 
 Môn Ngữ văn đề cao vai trò của học sinh với tư cách là người đọc tích cực, chủ 
động, không chỉ trong hoạt động tiếp nhận mà còn trong việc tạo nghĩa cho văn bản. 
Khi viết, học sinh cần phải bắt đầu từ việc hình thành ý tưởng và triển khai ý tưởng một 
cách sáng tạo. Qua việc học môn Ngữ văn, nhất là đọc và viết về văn học, học sinh có 
được khả năng đề xuất ý tưởng, tạo ra sản phẩm mới; suy nghĩ không theo lối mòn, biết 
cách giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, phù hợp với tình huống, bối cảnh. 
 1.2. Cơ sở thực tiễn 
 Hiện nay vấn đề văn hóa đọc đang được xã hội quan tâm và đã có nhiều học giả, 
nhà khoa học nghiên cứu vấn đề này và đã đưa ra quan điểm về văn hóa đọc khác nhau. 
Về khái niệm “văn hóa đọc”, nghĩa rộng đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc 
của mỗi cá nhân. của cộng đồng xã hội. Ở nghĩa hẹp đó là ứng xử, giá trị và chuẩn mực 
đọc của mỗi cá nhân, cụ thể bao gồm ba thành phần: thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ 
năng đọc. Văn hóa đọc xem xét ở góc độ cá nhân bao hàm cả khía cạnh định hướng của 
chủ thể tới đối tượng đọc, khả năng, trình độ lĩnh hội thông tin (kĩ năng đọc) cả ở phản 
ứng với đối tượng đọc (ứng xử văn hóa). Như vậy, văn hóa đọc không phải là một khái 
niệm mới. Qua các quan niệm khác nhau về văn hóa đọc đã góp phần thể hiện đầy đủ 
bản chất của văn hóa đọc. 
 Vai trò của sách và việc đọc sách ngày nay, cùng với sách các phương tiện thông 
tin ngày càng trở nên đa dạng, văn hóa đọc được hình thành từ khi có sách đến nay 
 6 Văn bản văn học cũng là một loại văn bản, nên dạy đọc hiểu văn bản văn học 
cũng cần tuân thủ cách đọc hiểu văn bản nói chung. Tuy nhiên, văn bản văn học có 
những đặc điểm riêng vì thế giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu, giải mã văn bản 
văn học theo một quy trình phù hợp với đặc trưng của văn bản nghệ thuật. Học sinh cần 
được hướng dẫn, luyện tập đọc tác phẩm văn học theo quy trình từ tri nhận văn bản ngôn 
từ đến khám phá thế giới hình tượng nghệ thuật và tìm kiếm, đúc kết nội dung ý nghĩa; 
kĩ năng tìm kiếm, diễn giải mối quan hệ giữa cái “toàn thể” và chi tiết “bộ phận” của 
văn bản, phát hiện tính chỉnh thể, tính thống nhất về nội dung và hoàn chỉnh về hình 
thức của tác phẩm văn học. 
 Phương pháp dạy đọc phải tập trung kích hoạt việc đọc tích cực, sáng tạo ở chủ 
thể đọc. Hướng dẫn và khích lệ học sinh chủ động, tự tin, phát huy vai trò “đồng sáng 
tạo” trong tiếp nhận tác phẩm; hứng thú tham gia kiến tạo nghĩa cho văn bản; biết so 
sánh đối chiếu, liên hệ mở rộng, huy động vốn hiểu biết cá nhân, sử dụng trải nghiệm 
cuộc sống của bản thân để đọc hiểu, trải nghiệm văn học, phát hiện những giá trị đạo 
đức, văn hoá và triết lí nhân sinh, từ đó biết vận dụng, chuyển hoá thành giá trị sống. 
Khi dạy học đọc hiểu, giáo viên chú ý giúp học sinh tự phát hiện thông điệp, ý nghĩa, 
góp phần lấp đầy “khoảng trống” của văn bản. Giáo viên có những gợi ý, nhưng không 
lấy việc phân tích, bình giảng của mình thay thế cho những suy nghĩ của học sinh; tránh 
đọc chép và hạn chế ghi nhớ máy móc. Sử dụng đa dạng các loại câu hỏi ở những mức 
độ khác nhau để thực hiện dạy học phân hóa và hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, 
hình thành kĩ năng đọc. 
 Tuỳ vào đối tượng học sinh ở từng cấp học, lớp học và thể loại của văn bản văn 
học mà vận dụng các phương pháp, kĩ thuật và hình thức dạy học đọc hiểu cho phù hợp 
như: đọc diễn cảm, đọc phân vai, kể chuyện, đóng vai để giải quyết một tình huống, 
diễn kịch, sử dụng câu hỏi, hướng dẫn ghi chép trong tiến trình đọc bằng các phiếu ghi 
chép, phiếu học tập, nhật kí đọc sách, tổ chức cho học sinh thảo luận về văn bản, chuyển 
thể tác phẩm văn học từ thể loại này sang thể loại khác, vẽ tranh, làm phim, trải nghiệm 
những tình huống mà nhân vật đã trải qua,... Một số phương pháp dạy học khác như 
đàm thoại, vấn đáp, diễn giảng, nêu vấn đề,... cũng cần được vận dụng một cách phù 
hợp theo yêu cầu phát triển năng lực cho học sinh. 
 Chương trình Ngữ văn 2018 hướng tới mục tiêu định hướng nghề nghiệp, nội 
dung dạy học ở cấp THPT bố trí chuyên đề học tập ở cả 3 lớp 10, 11, 12. Mỗi năm học, 
những học sinh lựa chọn khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là các em có thiên hướng 
văn chương, được chọn học một số chuyên đề học tập. Những chuyên đề này nhằm tăng 
cường về kiến thức văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp 
ứng nhu cầu, sở thích và định hướng nghề nghiệp của học sinh. 
 Chương trình Ngữ văn 2018 quy định ở cấp THPT, mỗi lớp có 3 chuyên đề nhưng 
không chi tiết hóa nội dung dạy học của từng chuyên đề nhằm tạo cơ hội cho giáo viên 
và học sinh được chủ động lựa chọn nội dung phù hợp vứi thực tế của địa phương và sở 
 8 Chương 2: Tri thức tổng quát về thể loại và kỹ năng đọc, viết, giới thiệu một tập 
thơ, một tập truyện ngắn hoặc một tiểu thuyết 
 2.1. Tri thức tổng quát về thể loại 
 2.1.1 Thơ 
 Thơ là dạng thức tổ chức ngôn từ nghệ thuật biểu cảm, có nhạc tính, gần với lời 
ca, tiếng hát, phân biệt với văn xuôi vốn sử dụng ngôn từ gần với lời nói thông thường. 
Ý thơ thường hàm súc, cô đọng, xúc cảm trong thơ thường được dồn nén, song thế giới 
nghệ thuật thơ lại được kiến thiết bởi những hình ảnh, sắc màu sinh động, giàu tính 
biểu trưng với những phép chuyển nghĩa, những kết hợp ngôn từ ấn tượng, có thể được 
“lạ hoá”, khơi gợi liên tưởng phong phú, do vậy mà đa nghĩa, có nhiều hàm ý. 
 Với tổ chức ngôn từ như thế, thơ có khả năng diễn tả những suy tư, tình cảm 
mãnh liệt hoặc những rung cảm tinh tế, phức tạp, đôi khi mơ hồ, khó lí giải của con 
người đối với những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. 
 Thơ rất đa dạng về loại và thể. Về loại hình sáng tác, có thể phân biệt thơ trữ tình 
với thơ tự sự (sử thi, truyện thơ,...), kịch thơ, hoạt cảnh thơ. Về thể thơ, có thể phân 
biệt những thế thơ có thi luật ổn định như thơ lục bát, song thất lục bát, các thế thơ 
Đường luật, thợ xon-nê (sonnet), thơ hai-cư (haiku),... với thơ tự do, thơ văn xuôi. 
 Về dung lượng, có thể phân biệt bài thơ nhỏ với trường ca. Về đề tài, có thơ ngụ 
tình (tình cảm giữa con người với con người, với gia đình, quê hương, Tổ quốc,...), thơ 
thuyết lí (suy tư về những triết lí nhân sinh, đạo đức,...), thơ tả cảnh (thể hiện cảm xúc 
trước một cảnh thiên nhiên hay khung cảnh nào đó), thơ tức sự (thể hiện cảm xúc, suy 
tư trước một sự việc, hiện tượng, một tình huống cuộc sống nào đó) hay những dạng 
phức hợp của các đề tài trên. 
 Mỗi một thời đại thi ca, cũng như một trào lưu, trường phái thi ca có một vẻ mặt 
riêng, được xác định bằng những đề tài, chủ đề, thể thơ, hình ảnh thơ, kiểu nhân vật trữ 
tình, phương thức cấu tứ,... mang tính đặc trưng. 
 Một số bài thơ có thể được chính tác giả hay người tuyển chọn hợp lại thành 
chùm thơ, dựa trên sự thống nhất hay liên quan với nhau về đề tài, chủ đề, giai đoạn 
sáng tác, thể loại,... Tập hợp nhiều bài thơ (có thể xen lẫn cả trường ca) trong một cuốn 
sách làm thành tập thơ. 
 Tập thơ có nhiều loại: Tập thơ của một tác giả có thể được chính tác giả hay 
người biên soạn, nhà xuất bản tuyển lựa theo các tiêu chí khác nhau: thời gian, địa 
điểm, giai đoạn sáng tác, hoặc loại hình tác phẩm (thể thơ, đề tài, chủ đề, cảm hứng, 
hình tượng; Tập thơ của nhiều tác giả được nhóm tác giả hay người biên soạn, nhà xuất 
bản tuyển lựa. Việc tuyển lựa có thể được tiến hành theo tiêu chí giai đoạn lịch sử, thời 
đại, thành phần xã hội, lứa tuổi, giới tính, trào lưu, trường phái,... theo tiêu chí loại hình 
tác phẩm (thể thơ, đề tài, chủ đề, cảm hứng, hình tượng,...). 
 10 

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_ky_nang_doc_viet_gioi_thieu_m.pdf