Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc Lớp 2 theo hướng phát huy năng lực (bộ sách Kết nối tri thức)
Cấp tiểu học là cấp học nền tảng trong hệ thống các cấp học ở nước ta vì đây là cấp học mở đầu cung cấp những kiến thức cơ bản cho học sinh, dạy cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn chuẩn bị cho các cấp học tiếp theo.Trong cấp Tiểu học thì các lớp đầu cấp (lớp 1,2) lại càng được coi trọng vì đây là thời kỳ các em bắt đầu làm quen với một hệ thống các tri thức mới của rất nhiều các môn học trong đó có môn Tiếng Việt.MônTiếng Việtgiữ một vị trí rất quan trọng, nó có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó “Đọc” là quá trinh chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh. Nếu không biết đọc con người không tiếp thu được nền văn minh của loài người, không khơi dậy được năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như bồi dưỡng tâm hồn để hình thành được một nhân cách toàn diện.
Chính vì vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, giúp các em biết yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như tư duy hình tượng.
Cũng chính vì những lẽ trên, để nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập đọc, tôi luôn tìm tòi, trau dồi thêm những kiến thức, kinh nghiệm và đặc biệt tôi luôn thay đổi phương pháp dạy học phù hợp với năng lực của các em sao cho trong giờ học các em có thể phát huy tối đa năng lực vốn có của bản thân. Với lòng yêu nghề, mến trẻ tôi luôn mong những học sinh của mình ngày một tiến bộ. Vì vậy, để các em học tốt hơn phân môn Tập đọc, tôi mạnh dạn viết nên nhữngkinh nghiệm của mình trong quá trình giảng dạy với đề tài “Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 2 theo hướng phát huy năng lực”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc Lớp 2 theo hướng phát huy năng lực (bộ sách Kết nối tri thức)

đọc lớp 2 theo hướng phát huy năng lực”. II/ Mục đích nghiên cứu: Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn ghi lại những phương pháp, rèn kĩ năng cho học sinh của mình trong quá trình giảng dạy, giúp học sinh tự tintrong học tập,trong giao tiếp và khi tham gia các hoạt động. Qua đó phát triển khả năng tư duy sáng tạo, chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động, góp phần nâng cao chất lượng học tập cho học sinh, đáp ứng yêu cầu học tập hiện nay trong thời kỳ hội nhập. III/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 2 2. Phạm vi nghiên cứu: Tôi tập trung nghiên cứu“Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phân môn Tập đọc lớp 2 theo hướng phát huy năng lực”tại trường Tiểu học. IV/ Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: 1. Phương pháp quan sát và hỏi đáp. 3. Phương pháp thực hành. 2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ. 4. Phương pháp giải quyết vấn đề 5. Phương pháp vẽ sơ đồ tư duy Phương pháp sơ đồ tư duy ( Mind mapping) doTony Buzan đã đưa ra mô hình và phổ biến rộng, là phương pháp được sử dụng để ghi chú và trình bày thông tin dưới dạng sơ đồ. Lập sơ đồ tư duy là một công việc rất đơn giản dù đây là kĩ thuật cực kì hiệu quả. Giúp người lập độc lập trong suy nghĩ, luôn bình tĩnh trong những tình huống phức tạp, cảm thấy làm chủ được tri thức của mình, rút ngắn được thời gian và ghi nhớ rất tốt. II.Thực trạng và nguyên nhân 1.Thực trạng: a)Thuận lợi` -Được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất thiết bị hiện đại. -Hầu hết học sinh đều có ý thức làm bài tập, nắm được những kiến thức và kĩ năng cơ bản và có thái độ tích cựctrong việc học. -Học sinh ngoan, hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài, biết hợp tác trong các hoạt động tập thể, -Nhanh nhẹn, dễ nắm bắt nội dung học tập bởi các em chưa bị chi phối nhiều về cuộc sống xung quanh. -Bố mẹ quan tâm đến việc học của con mình. b) Khó khăn -Địa bàn của trường còn bị ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương nên học sinh còn đọc sai,ngọng, phát âm chưa chuẩn. Đọc chưa lưu loát, ngắt nghỉ còn bừa bãi, nhấn giọng lên, xuống tùy tiện. -Trình độ HS không đồng đều, chưa tập trung cao độ trong học tập. -Chưa nghiên cứu kĩ nội dung bài nên chưa hiểu sâu về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. -Dễ quên kiến thức nếu không được luyện tập thường xuyên -Thời lượng một tiết Tập đọc còn hạn chế nên không thể luyện đọc kĩ và sửa lỗi cho từng em trong lớp. -Khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh là chưa cao, với bài tập đòi hỏi sự tư duy thì ta thấy câu trả lời của các em còn hạn chế. Khả năng diễn đạt của các em chưa thực sự tốt. - Đồ dựng trực quan ở trường còn ít chưa đáp ứng đủ cho các tiết học. 2.Phân tích các nguyên nhân và yếu tố tác động 2.1. Khảo sát chương trình sách giáo khoa Các dạng BT dạy đọc hiểu -Phân loại theo các bước lên lớp, ta có BT kiểm tra bài cũ, BT luyện tập. -Phân loại theo hình thức thực hiện: BT trả lời miệng, BT thực hành đọc, -Phân loại theo mức độ tính độc lập của học sinh. Theo cách chia này có thể gọi tên các BT: BT tái hiện, BT cắt nghĩa, BT phản hồi (sáng tạo). -Phân loại theo đối tượng thực hiện BT: Có BT cho cả lớp làm chung, có BT dành cho nhóm học sinh, có BT dành cho cá nhân, có BT cho HS đại trà,. -Sau đây là các kiểu dạng BT dạy đọc hiểu xem xét từ góc độ nội dung: + Ta có thể phân loại một số kiểu dạng BT đọc hiểu như sau: C1) Nhóm BT có tính chất nhận diện, tái hiện ngôn ngữ của văn bản. Nhóm này có những kiểu BT sau. *BT yêu cầu HS xác định đề tài của bài: BT xác định đề tài của văn bản thường có dạng hỏi trực tiếp “ câu chuyện này nói về ai, về cái gì?”. VD: BT yêu cầu xác định các nhân vật trong chuyện: -Bạn của bé ở nhà là ai? (Con chó nhà hàng xóm – TV 2 tập 1) *BT yêu cầu học sinh phát hiện ra các từ ngữ,chi tiết, hình ảnh của bài. VD: Những hình ảnh nào chứng tỏ Thần Gió phải bó tay? (Ông Mạnh thắng Thần Gió – TV 2 tập 2) *BT yêu cầu học sinh phát hiện ra những câu quan trọng của bài -VD: Câu nào chó thấy những người con rất thích món quà của bố? (Quà của bố -TV 2 tập 1) *BT yêu cầu học sinh phát hiện ra đoạn thường có dạng: Bài này gồm mấy đoạn ? Mỗi đoạn từ đâu đến đâu ? hoặc cụ thể hơn như: -VD:Mỗi ý sau đây được nói trong khổ thơ nào? Qua thời gian thực hiện, tôi nhận thấy các nguyên nhân và yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học đó là chính là người dạy và người học (giáo viên và học sinh). *Về phía học sinh: + Trẻ rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Đặc biệt đối với học sinh lớp 2, lớp mà các em vừa mới vượt qua những mới mẻ ban đầu chuyển từ hoạt động vui chơi là chủ đạo sang hoạt động học tập là chủ đạo. Giờ học sẽ trở nên nặng nề, không duy trì được khả năng chú ý của các em nếu các em chỉ có nghe và làm theo. +Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương phát âm chưa chuẩn, ông bà, bố mẹ, người lớn nói thế nào các em bắt chước như thế. +Học sinh đã đọc kém lại lười đọc, không chú ý thầy hướng dẫn, bạn đọc đúng để mình học tập. +Đối với những em đã đọc đúng thì chưa chịu rèn kĩ năng đọc diễn cảm. +Việc chuẩn bị bài của các em ở nhà chưa kĩ, không luyện đọc nhiều lần trước khi đến lớp. *Về phía giáo viên: +Chưa chủ động trong bài dạy,chưa sáng tạo trong khi dạy. +Đọc chưa hay, chưa đúng nhất là ở bậc mẫu giáo làm ảnh hưởng không ít tới việc đọc của HS khi học 29 chữ cái. +Chưa chú ý đến đọc nhóm đôi nối tiếp, đọc cho bạn nghe và ngược lại, ít chú đến học sinh đọc sai, chỉ chú ý đến học sinh đọc đúng, đọc hay. +Còn nặng nề về phương pháp truyền thống, nặng thuyết trình không chú ý năng lực chủ động của học sinh. Chính những nguyên nhân đó, bản thân tôi nhận thấy cần phải có những đổi mới trong dạy học, trong cách dạy và cách học của học sinh, để phát huy được sự tự tin của học sinh trong học tập, trong giao tiếp, trong các hoạt thanh, cuối cùng cho các em đọc cá nhân các tiếng, từ khó này. Với những câu mà giáo viên dự tính có nhiều em đọc sai phách câu (ngắt nghỉ không đúng chỗ) cũng tiến hành như vậy. Cuối cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả đoạn và bài. =>-Ở trên lớp, giáo viên trực tiếp sửa lỗi phát âm cho từng em để các em biết được lỗi của mình và sửa lại ngay. Yêu cầu mỗi em dành 15 phút mỗi buổi tối để các em đọc lại bài, luyện phát âm lại những lỗi sai. -Giáo viên phát động việc luyện đọc ở nhà thông qua việc thực hiện đọc sách, truyện theo biểu đồ THỜI GIAN ĐỌC SÁCH(phụ lục). Bạn nào thực hiện đầy đủ,chăm chỉ hằng ngày và có số thời gian đọc nhiều sẽ được cô khen và tặng quà vào cuối tháng. 1.2. Luyện đọc nhanh Đọc nhanh là đọc lưu loát trôi chảy. *Biện pháp luyện đọc nhanh: -Trên lớp, giáo viênđọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Giáo viên điều chinh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. -Giáo viên kết hợp với phụ huynh kiểm tra tốc độ con đọc ở nhà và báo lại cho GV. 1.3. Luyện đọc diễn cảm Đọc diễn cảm đó là việc đọc thể hiện ở kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ giọng v...vv....để biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài học. Ở Tiểu học khi nói đến đọc diễn cảm, người ta thường nói về một số kĩ thuật như ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ và ngữ điệu. *Biện pháp rèn luyện đọc hiểu Để tăng cường chất lượng đọc hiểu bằng cách giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu văn bản trước khi đến lớp và khi lên lớp giáo viên hướng dẫn học sinháp dụng PHƯƠNG PHÁP VẼ SƠ ĐỒ TƯ DUY để phân tích văn bản đó. Ứng dụng của sơ đồ tư duy trong việc đọc hiểu văn bản: Áp dụng phương pháp vẽ sơ đồ tư duy để phân tích một văn bản gồm những bước sau: B1: Chuẩn bị: Giấy trắng, bút kim, bút màu. B2: Đọc +Đọc lướt Chúng ta lướt nhanh văn bản để tìm các từ khóa và ý chủ đạo rồi lần lượt liệt kê chúng ở góc tờ giấy. Sau đó, chúng ta vẽ một sơ đồ tư duy với tâm sơ đồ nên có kích thước 5cm x 5cm trên khổ giấy A4 để tạo ra một không gian rộng rãi. các nhánh chính là các từ khóa có khả năng gợi lại thông tin hữu ích, mỗi từ khóa chỉ diễn tả một ý tưởng hay một khái niệm.Các nhánh của sơ đồ nên có dạng đường cong, thuôn dài và nên có độ dài bằng độ dài của từ được ghi. +Đọc chi tiết Tiếp theo, chúng ta đọc lại văn bản một cách chi tiết rồi hoàn chỉnh sơ đồ. Và cấu trúc thật sự của nội dung này chỉ xuất hiện rõ ràng sau khi chúng ta đọc xong văn bản B3: Ấp ủ ý tưởng Sau khi đọc xong, hãy nghỉ giải lao một chút trước khi bước sang giai đoạn tiếp theo. đó là bó đũa. Để giúp các em dễ dàng quan sát và cảm nhận trực tiếp. c) Kết hợp các trò chơi vào bài tập: Giáo viên nên thường xuyên lồng ghép trò chơi vào bài học. Trò chơi cần phải phù hợp với đối tượng học sinh. Giáo viên cần linh hoạt sử dụng các bài tập thiết thực có tác dụng trực tiếp đối với học sinh nhằm bổ sung kiến thức và mở rộng tầm hiểu biết, tạo cho các em có cơ sở để phát triển óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú. Ví dụ: Khi dạy các tiết hướng dẫn TH Tiếng Việt vào buổi chiều, với bài “Phần thưởng -TV2 tập 1” tôi đã đưa ra “trò chơi giải ô chữ” (phụ lục). Tôi yêu cầu các em chơi theo nhóm. Sau khi học sinh đã giải xong câu đố hàng dọc. Đội nào chiến thắng tôi luôn động viên bằng những lời khen và tặng phần thưởng hoa điểm tốt. d) Giáo viên cần trau dồi kĩ năng đọc mẫu: +Bài đọc mẫu giáo viên cần đọc trước nhiều lần, tìm hiểu kĩ nội dung cảm thụ bài văn, bài thơ để tìm được giọng đọc đúng, đọc hay. Trước khi đọc mẫu giáo viên cần tạo cho học sinh tâm thế, hứng thú nghe đọc, yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát cả lớp không nên đi lại trong khi đọc. +Giáo viên ghi âm bài tập đọc trên lớp gửi cho các em cần luyện đọc để các em có thể nghe lại được nhiều lần, qua đó các em sẽ nhớ được cách đọc. e)Chú trọng rèn kĩ năng đọc cho từng đối tượng học sinh: +Theo dõi quá trình học tập của các em qua các đợt kiểm tra và ghi lại kết quả. +Đối với những học sinh đọc thêm, bớt, đọc sai từ thì giáo viên yêu cầu các em đọc lại 2 -3 lần câu đó để các em tự phát hiện từ các em đã đọc dư hoặc thiếu. Đánh vần lại từ đó để các em sửa nhanh hơn. Giáo viên phải tạo điều kiện để những HSnào yếu được đọc nhiều ở lớp, luôn động viên, khuyến Kẽo cà kẽo kẹt Kẽo cà Kẽo kẹt..... ( Bài “Tiếng võng kêu” –TV2 tập 1) * Bài dạng văn bản hành chính: Xác định giọng đọc cho phù hợp thể loại văn bản. Ví dụ: Bài “ Tự thuật” TV 2 tập 1 Đọc với giọng rõ ràng, rành mạch. g,Giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo trong phần tổ chức luyện đọc lại Ví dụ: Các bài thuộc dạng văn xuôi giáo viên có thể cho học sinh thi đọc đoạn văn mà học sinh thích; các bài thuộc dạng văn kể chuyện có thể cho học sinh đọc theo vai từng nhân vật; bài thuộc dạng thơ thì tổ chức cho học sinh thi học thuộc. Giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu, các em chưa được tham gia đọc ở phần trên; trong khi học sinh đọc giáo viên cần quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai, phát huy khả năng đọc cho từng đối tượng học sinh. h)Một số biện pháp hỗ trợ -Nhận xét, đánh giá học sinh cần nhẹ nhàng và tế nhị mang tính động viên khuyến khích học sinh, tạo cho học sinh sự tự tin trong học tập. -Tạo điều kiện cho học sinh giúp đỡ nhau trong việc rèn đọc thông qua “đôi bạn cùng tiến” -Khen ngợi, tuyên dươnghọc sinh thường xuyên tìm đọc sách, báo, truyện phù hợp với lứa tuổi học sinh. IV. KẾT QUẢ Qua gần 1 năm triển khai và thực hiện đổi mới phương pháp dạy nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy Tập đọc lớp 2. Tôi thu được kết quả như sau: Về phía học sinh: -Phát huy được tính chủ động, mạnh dạn, tự tin, kĩ năng tư duy sáng tạo học hỏi của học sinh thông qua các hoạt động học tập. PHẦN 3: KẾT KUẬN I.Kết luận Việc đổi mới phương tiện dạy học kết hợp đổi mới phương pháp dạy đã góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. Nó đã làm thay đổi nhận thức của cán bộ giáo viên về tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học giúp cho học sinh sớm được hình thành các năng lực, kỹ năng cần thiết khác trong xã hội mới. Học sinh được phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ trong nhóm. Học sinh được rèn luyện cách học, được tự học, hoạt động, trải nghiệm, hợp tác từ đó có được năng lực mới. Vai trò của người giáo viên trong việc đổi mới là vô cùng quan trọng.Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng thì học mà chơi, chơi mà học. Chính vì vậy, người giáo viên cần có niềm say mê nghề nghiệp, sự tận tụy vì học sinh và quan trọng hơn cả là hãy coi mỗi học trò như chính con của mình, kết quả của trò là sự phản ánh sự nỗ lực trong lao động, sự cố gắng không ngừng của mỗi giáo viên. II. Kiến nghị -Với những kinh nghiệm được nêu ở trên tôi rất mong muốn BGH nhà trường tạo điều kiện để cho giáo viên được thực hiện. -Nhà trường thường xuyên cập nhật các loại sách mới về phương pháp giảng dạy cũng như các sách về chuyên môn của các lớp, để giáo viên được đọc các tài liệu, trao đổi, trau dồi kiến thức phân môn Tập đọc với các đồng nghiệp. -Đầu tư thêm về đồ dùng trực quan, tranh ảnh minh hoạ để tạo hứng thú học tập cho học sinh. -Tổ chức thêm chuyên đề các môn học ở các cấp để giáo viên có thể học
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_giup_hoc_sinh_hoc_t.docx