Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu ứng dụng của môn Vật lí 9 vào thực tiễn
Trước tình hình phát triển của toàn thế giới, để bắt kịp với xu thế phát triển chung, bắt buộc người lao động cần phải được đào tạo bài bản không chỉ trên sách vở mà còn ở trong thực tế. Muốn làm được điều đó, ngay khi đang được ngồi học trên ghế nhà trường học sinh cần được tìm hiểu và biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tế.
Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, muốn hiểu rõ, hiểu sâu bản chất của bộ môn bắt buộc người học cần phải có tính kiên trì, chịu khó và đặc biệt là thường xuyên vận dụng kiến thức để giải thích các sự việc, hiện tượng trong cuộc sống.
Vật lí còn là một môn khoa học rất gần gũi với cuộc sống của con người, có nhiều ứng dụng trong đời sống cũng như trong sản xuất. Để học sinh có hứng thú và niềm đam mê với môn học, tôi thấy mỗi giáo viên giảng dạy môn Vật lí cần thường xuyên lồng ghép các hiện tượng thực tế có liên quan đến môn học xảy ra xung quanh cuộc sống nhằm giúp học sinh hiểu kiến thức, biết các ứng dụng của từng chất trong cuộc sống hằng ngày. Có như vậy mới khơi dậy niềm đam mê và hứng thú của các em với môn học. Khi các em có được niềm đam mê và hứng thú với môn học thì chắc chắn các em sẽ đạt kết quả học tập cao!
Qua các năm học giảng dạy bộ môn Vật lí, tôi luôn tìm tòi các phương pháp dạy học để các em học sinh luôn tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc học tập của mình. Bên cạnh đó, tôi thường xuyên hướng dẫn các em tìm tòi, khám phá về ứng dụng của Vật lí xung quanh ta, cũng như thường xuyên phối hợp với các thầy cô giáo chủ nhiệm, Ban đại diện Cha mẹ học sinh, nhà trường tạo điều kiện để các em được trải nghiệm, vận dụng kiến thức đã được học vào thực tế. Từ đó tôi đúc kết những kinh nghiệm mình có được để thực hiện đề tài: “Một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu ứng dụng của môn Vật lí 9 vào thực tiễn”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu ứng dụng của môn Vật lí 9 vào thực tiễn

MỤC LỤC TT NỘI DUNG TRANG Phần 1. Đặt vấn đề 2 1 Lý do chọn đề tài nghiên cứu 1 2 Mục đích nghiên cứu 1 3 Phạm vi nghiên cứu 1 4 Đối tượng nghiên cứu 1 5 Phương pháp và phương tiện nghiên cứu 2 Phần 2. Giải quyết vấn đề 2 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn 2 2 Thực trạng vấn đề nghiên cứu 2 3 Giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề 3 4 Tính mới của giải pháp 5 5 Hiệu quả của SKKN 6 Phần 3. Kết luận và khuyến nghị 7 5. Phương pháp và phương tiện nghiên cứu - Sử dụng phối hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa trong nghiên cứu các tài liệu lý thuyết có liên quan. - Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm sư phạm. PHẦN 2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Đối với học sinh THCS các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao hay yêu thích thầy cô nào thì thích học môn đó. Người giáo viên dạy Vật lí phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh, trong đó phương pháp dạy học bằng cách lồng ghép giải thích các hiện tượng vật lí thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy môn Vật lí rất gần gũi với các em. Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh thực hiện các hoạt động chủ yếu theo quy trình sau: Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm do giáo viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin cần thiết về các hiện tượng Vật lí cần học. Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết. Vận dụng: dựa vào kết luận đã rút ra từ bài học, học sinh vận dụng vào thực tiễn để hiểu sâu bài hơn. 2. Thực trạng Hiện nay, nhiều học sinh và cha mẹ học sinh có suy nghĩ chỉ cần con làm tốt các bài tập, mua nhiều sách về để ôn luyện hay tìm các thầy cô giỏi để dạy con giải bài tập để thi tốt. Tuy nhiên, ông cha ta đã từng nói “học đi đôi với hành”. Thật vậy, nguồn kiến thức là vô tận, học sinh không thể lĩnh hội kiến thức một cách cứng nhắc như một cái máy mà cần phải tạo điều kiện cho các em biết áp dụng kiến thức vào thực tế, từ đó kích thích tính tò mò, ham học hỏi của học sinh và đẩy mạnh hứng thú học tập của học sinh trong học tập môn Vật lí nói riêng và các môn Khoa học tự nhiên nói chung. Qua thực tế tôi đã tiến hành thực nghiệm ở lớp 9A, 9D, HS được khảo sát vào đầu năm học, kết quả: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu 9A 40 20 (50%) 18 (45%) 2 (5%) 0 (0%) Tùy vào nội dung của mỗi bài học cũng như nội dung kiến thức để lồng ghép trong bài mà tôi định hướng đưa nội dung cần lồng ghép vào từng phần của bài học. Cụ thể bằng những biện pháp như sau: Biện pháp 1: Liên hệ thực tế khi mở đầu bài giảng Ví dụ: Bài 13: Điện năng- Công của dòng điện. GV vào bài nhờ tình huống trong thực tế: Hàng tháng, mỗi gia đình sử dụng điện đều phải trả tiền điện theo số đếm của công tơ điện. Vậy số tiền điện phải trả được tính như thế nào? Biện pháp 2: Liên hệ thực tế trong nội dung của bài học Ví dụ: Bài 26- Ứng dụng của nam châm ? Nhờ đâu cánh cửa tủ lạnh không có khóa, then cài mà vẫn đóng chặt Biện pháp 3: Liên hệ thực tế khi kết thúc bài học Ví dụ: Bài 40- Hiện tượng khúc xạ ánh sáng ? Khi đi bơi hoặc xuống ao, hồ, sông ngòi cần chú ý điều gì? Giải pháp 3: Liên hệ thực tế bằng những mẩu chuyện lịch sử hoặc những mẩu chuyện hài hước nhằm gây hứng thú cho học sinh. Ví dụ: Bài 21- Nam châm vĩnh cửu Tổ Xung Chi là nhà phát minh của Trung Quốc thế kỉ thứ V. Ông đã chế ra chiếc xe chỉ nam. Đặc điểm của xe này là dù xe có chuyển động theo hướng nào thì hình nhân đặt trên xe cũng chỉ tay về hướng Nam. Bí quyết nào đã làm cho hình nhân trên xe của Tổ Xung Chi luôn chỉ hướng Nam? Giải pháp 4: Phối hợp với các tổ chức, Đoàn thể trong nhà trường tạo điều kiện để học sinh thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế. Trong các tiết hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hay các tiết học ngoại khóa, giáo viên bộ môn chủ động phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp cũng như các tổ chức, Đoàn thể trong nhà trường, tổ chức lồng ghép thực hiện các tiết thực hành vận dụng kiến thức đã được học để bước đầu các em học sinh làm ra những sản phẩm được ứng dụng trong học tập cũng như trong cuộc sống. Thông qua đó giúp các em say mê, yêu thích môn học hơn. Sau đây là một số nội dung mà tôi đã đưa vào các tiết dạy, hoạt động trải nghiệm: Chế tạo nam châm điện đơn giản - Cách thực hiện: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo nhóm. Chia nhóm theo tổ. - Thời gian thực hiện: 1tiết học (45 phút). - Nguyên liệu gồm: dây điện; pin; ống nhựa -Cách tiến hành: Dùng một đoạn dây đồng quấn xung quanh một ống nhựa, luồn vào trong ống một chiếc đinh sắt dài, nối hai đầu dây với nguồn điện (pin). giáo viên bộ môn của năm học trước chứ không phải là đánh giá năng lực của các em theo ý kiến chủ quan của cá nhân. Có như vậy tôi mới có định hướng để đưa ra phương pháp dạy học phù hợp ở các lớp. Giải pháp thứ hai là giải pháp liên hệ thực tế ở từng phần cụ thể trong nội dung của mỗi bài học. Tính mới ở đây đó là tôi không “cứng nhắc” trong việc lồng ghép nội dung ở đầu bài học hay khi kết thúc bài học mà lồng ghép một cách linh hoạt sao cho phù hợp với nội dung bài học và gây hứng thú cho học sinh. Giải pháp thứ tư là phối hợp với các tổ chức, Đoàn thể trong nhà trường tạo điều kiện để học sinh thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tế. Giải pháp thứ sáu là phối hợp với Ban đại diện Cha mẹ học sinh, Nhà trường tổ chức cho các em được đi thăm quan các cơ sở sản xuất, hệ sinh thái tại địa phươnggiúp các em biết được ứng dụng của Vật lí trong thực tế. Tính mới của hai giải pháp này đó là sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn với Ban đại diện Cha mẹ học sinh cũng như với các Đoàn thể trong Nhà trường để kết quả của việc dạy và học đạt kết quả cao. Giải pháp thứ năm giáo viên đưa ra các bài tập mang tính thực tiễn cao nhằm gây hứng thú cho học sinh, cũng như giúp các em biết vận dụng Vật lí vào đời sống. Tính mới của giải pháp là đưa bài tập mang tính thực tiễn vào bài học để học sinh vừa rèn được kỹ năng tính toán, kỹ năng làm bài tập lại vừa biết vận dụng kiến thức vào thực tế và học sinh không bị nhàm chán khi việc lồng ghép toàn bộ là lý thuyết. 5. Hiệu quả SKKN Tôi đã và đang áp dụng đề tài này vào trong công tác giảng dạy của mình. Sau khi áp dụng đề tài vào công tác giảng dạy tôi nhận thấy các em học sinh có sự hứng thú, say mê với môn học hơn từ đó đạt kết quả cao hơn trong học tập. Cụ thể: Kết quả đầu năm học 2023- 2024 ở bộ môn Vật lí của học sinh lớp 9 trường trung học cơ sở Lương Thế Vinh (trong đó tôi trực tiếp giảng dạy ở các lớp 9A, 9D) như sau: 9A 9D Tổng HS 40 40 Giỏi 22 4 Khá 18 22 Trung 0 14 bình Yếu 0 0 Việc viết ra đề tài này đã giúp tôi tự tin hơn trong việc chuẩn bị tư liệu để giảng dạy. Kết quả bước đầu đã cho thấy được học sinh hào hứng, tích cực hơn đối với môn học. Giờ học giữa cô và trò diễn ra sôi nổi và hiệu quả hơn dẫn đến kết quả học tập được nâng lên. Mặc dù bản thân đã rất tâm huyết khi viết nên đề tài này nhưng chắc chắn rằng trong quá trình trình bày sẽ có nhiều thiếu sót. Tôi kính mong hội đồng khoa học nhà trường và của cấp trên góp ý, bổ sung hoàn chỉnh hơn để giúp bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tôi xin chân thành cảm ơn!
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_trong_viec_huong_da.docx