Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THCS Cổ Bi

Cách đây 539 năm (1484 – 2023), trên tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám ghi lại lịch sử khoa thi năm 1442 có khắc ghi dòng chữ “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết …”. Đó chính là những câu nói nổi tiếng của vị Tiến sĩ triều Lê, Thân Nhân Trung. Câu nói ấy không chỉ dừng lại trong xã hội thời Lê mà đến nay vẫn con nguyên giá trị, khi giáo dục đang trở thành quốc sách hàng đầu, khi văn hoá, khoa học và đội ngũ trí thức đang giữ một vai trò cực kì quan trọng trong sự nghiệp kiến quốc hôm nay.

Kế thừa tư tưởng của ông cha đi trước, hiện nay, Đảng ta luôn xem việc chọn nhân tài, bồi dưỡng nhân tài là một phần quan trọng trong quốc sách phát triển con người, điều đó được thể hiện qua việc chỉ đạo dạy và học trong các nhà trường. Nghị quyết số 29 của Hội nghị trung ương 8 khoá XI năm 2013 đã chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bòi dưỡng nhân tài”. Trong Điều 1- Quy chế thi chọn học sinh giỏi quốc gia các bậc phổ thông (Ban hành theo Quyết định số 3479/1997-QĐ-BGD&ĐT ngày 01-11-1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) cũng đã nêu rõ việc thi chọn học sinh giỏi nhằm “động viên, khích lệ những học sinh học giỏi và các giáo viên dạy giỏi; góp phần thúc đẩy việc cải tiến, nâng cao chất lương dạy và học, chất lượng của công tác quản lý, chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dục; đồng thời nhằm phát hiện học sinh có năng khiếu về môn học để tiếp tục bồi dưỡng ở cấp học cao hơn, nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước.”. Như vậy, có thể nói rằng, đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề cần thiết và cấp bách, bởi vì hơn lúc nào hết, đất nước đang cần những con người tài năng để đón đầu, tiếp thu những thành tựu khoa học mới, công nghệ hiện đại để đáp ứng được nhu cầu đổi mới, hội nhập hiện nay. Trong bất cứ một thời đại nào, những người giỏi, người tài luôn được trọng dụng để có thể cống hiến nhiệt huyết và tài năng cho công cuộc xây dựng đất nước.

Mặt khác, kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để đánh giá năng lực chuyên môn của giáo viên giảng dạy và sự phát triển của nhà trường. Mỗi học sinh giỏi không chỉ là niềm tự hào của cha mẹ, các thầy cô giáo mà còn là niềm tự hào của cả nhà trường, địa phương.

Trong những năm gần đây, tôi thường được giao nhiệm vụ phụ trách bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở nhà trường. Nhận thấy, việc bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và bộ môn GDCD nói riêng chưa đạt kết quả như mong muốn. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THCS Cổ Bi”.

docx 28 trang Thanh Ngân 02/09/2025 130
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THCS Cổ Bi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THCS Cổ Bi

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD ở trường THCS Cổ Bi
 2/19
 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Giáo dục công dân GDCD
Trung học cơ sở THCS
Học sinh HS 4/19
trọng dụng để có thể cống hiến nhiệt huyết và tài năng cho công cuộc xây dựng đất 
nước.
 Mặt khác, kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi là một tiêu chí không thể thiếu để 
đánh giá năng lực chuyên môn của giáo viên giảng dạy và sự phát triển của nhà 
trường. Mỗi học sinh giỏi không chỉ là niềm tự hào của cha mẹ, các thầy cô giáo mà 
còn là niềm tự hào của cả nhà trường, địa phương. 
 Trong những năm gần đây, tôi thường được giao nhiệm vụ phụ trách bồi dưỡng 
học sinh giỏi môn GDCD ở nhà trường. Nhận thấy, việc bồi dưỡng học sinh giỏi nói 
chung và bộ môn GDCD nói riêng chưa đạt kết quả như mong muốn. Với những lý 
do trên, tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh 
giỏi môn GDCD ở trường THCS Cổ Bi”.
II. Mục đích nghiên cứu.
 Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn được chia sẻ kinh 
nghiệm với các đồng nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy, trình độ chuyên 
môn nghiệp vụ. Đồng thời cũng là góp một tiếng nói giúp học sinh và phụ huynh 
thấy được tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và bồi 
dưỡng học sinh giỏi môn GDCD nói riêng. 
III. Đối tượng và thời gian nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu.
 Với đề tài này, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 8, 9 của trường 
THCS Cổ Bi.
2. Thời gian nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu trong 02 năm 2021 – 2022 và 2022 – 2023. Kết quả thực hiện đề 
tài này sẽ được rút kinh nghiệm, bổ sung trong những năm học sau để hoàn thiện 
hơn.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
 Khi tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi chọn một số phương pháp nghiên cứu 
sau: 6/19
đức, pháp luật cơ bản và giá trị, ý nghĩa của các chuẩn mực đó. Môn học này giúp 
học sinh có tri thức phổ thông, cơ bản về đạo đức, kĩ năng sống, pháp luật; đánh giá 
được thái độ và hành vi của bản thân và người khác; tự điều chỉnh và nhắc nhở, giúp 
đỡ bạn bè, người thân điều chỉnh thái độ, hành vi theo chuẩn mực đạo đức, pháp luật. 
 Việc giảng dạy bộ môn GDCD ở nhà trường luôn cố gắng đạt được những 
mục tiêu của ngành và đặc trưng bộ môn. Giáo viên thường xuyên vận dụng những 
phương pháp, kĩ thuật dạy học để giúp học sinh chủ động tiếp thu tri thức, vận dụng 
một cách linh hoạt vào đời sống, kịp thời ứng phó với những biến động của xã hội. 
Đặc biệt với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, lại có những yêu cầu cao hơn cả về 
nội dung và phương pháp. Người giáo viên phải có sự đầu tư, tích luỹ kinh nghiệm, 
có lòng nhiệt huyết để truyền đạt có hiệu quả để không chỉ trang bị cho các em hành 
trang cơ bản mà còn để các em tích cực tham gia vào các kì thi học sinh giỏi đạt kết 
quả cao nhất. 
2. Cơ sở thực tiễn.
 Lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi có nhiều thay đổi về tâm sinh lí. Mặt khác, 
các em đang sống trong thời đại với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự “ăn sâu” 
của mạng xã hội  Tất cả đều có những ảnh hưởng nhất định tới sự phát triển tâm 
sinh lí của các em. Các em rất tò mò, ham hiểu biết, ham hoạt động và khám phá 
những điều mới lạ quanh mình. Các em muốn tự khẳng định mình, muốn chứng minh 
mình là người lớn: làm theo ý mình, sống theo ý mình Vì vậy, các em dần tách 
khỏi ảnh hưởng của bố mẹ, các thầy cô giáo; không muốn nghe những lời dạy bảo 
của người lớn. Thậm chí, những lời khuyên nhủ, răn dạy của gia đình, thầy cô khiến 
các em bực tức, khó chịu. Vì thế, việc giảng dạy bộ môn GDCD trở nên khó khăn 
hơn, vì nhiều em cho rằng đó là những lí thuyết, sáo rỗng, giáo điều “khó nghe”.
 Thực tế còn cho thấy, nhiều học sinh và cha mẹ học sinh thường coi nhẹ môn 
học này, coi đây là môn phụ vì nó không phục vụ cho các kì thi chuyển cấp. Các em 
giành rất ít thời gian cho học môn GDCD đặc biệt việc vận dụng những kiến thức đã 
học vào thực tế lại càng hạn chế. 8/19
 - Việc tìm kiếm thông tin, kiến thức có thể thực hiện qua internet và các kênh 
thông tin khác cũng khá thuận tiện do nhà trường đã trang bị đầy đủ hệ thống Internat, 
máy tính 
 - Một số học sinh tìm thấy mối liên hệ giữa môn GDCD với thực tế cuộc sống 
mà yêu thích môn học hơn.
2. Khó khăn:
 - Với thời lượng chỉ có 1 tiết/ tuần nên không có nhiều thời gian để ôn tập và 
mở rộng kiến thức cho học sinh.
 - Việc ôn thi trước đây chỉ là qua loa, chiếu lệ chưa có chiều sâu, giáo viên ôn 
ít cập nhật các dạng đề và cách làm mới, đặc biệt là các dạng bài tập tình huống cần 
có ví dụ cụ thể để minh hoạ cho phần giải quyết tình huống của mình được thuyết 
phục hơn, vì vậy đã đi sâu vào tiềm thức của nhiều thế hệ học sinh và phụ huynh về 
niềm tin đối với môn học đặc biệt là kết quả các kì thi học sinh giỏi.
 - Học sinh ôn tập mò mẫm, không có mục tiêu rõ ràng, thiếu tự tin trong việc 
học và luôn có suy nghĩ “thi cho có” còn giải thì không đến phần mình. Từ đó, dẫn 
đến tự ti, không có ý chí quyết tâm và chưa thực sự nỗ lực trong học tập.
 - Học sinh tỏ ra không yêu thích môn học. Trong các tiết học chính khoá tại 
lớp, các em thường ồn ào, mất trật tự, không chú ý nghe giảng, không học và làm bài 
tập về nhà, thiếu hợp tác với giáo viên 
 - Phụ huynh học sinh chưa quan tâm đến việc ôn thi nên chỉ “trăm sự nhờ thầy 
và nhà trường” là chính. Vì thế cũng nảy sinh tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào nhà 
trường.
 - Tư liệu tham khảo ở sách giáo khoa, sách giáo viên chỉ mang tính chất định 
hướng chung. Các tài liệu hướng dẫn, bổ sung những thông tin pháp luật sửa đổi 
chưa được cung cấp kịp thời và còn thiếu rất nhiều. Trong mỗi bài dạy, giáo viên 
phải tự tìm kiếm thông tin, kiến thức pháp luật hiện hành để bổ sung minh hoạ cho 
tiết dạy phù hợp với thực tế. 10/19
tôi thường trao đổi với GVCN lớp 8 để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của học sinh, 
đồng thời nhờ GVCN tư vấn cho học sinh đăng kí môn ôn thi phù hợp với khả năng, 
năng lực. Tôi cho học sinh tự đăng kí vì tôi quan niệm rằng chỉ khi các em thích thì 
mới thực sự dần nhen nhóm, khơi dậy lòng đam mê học tập. Trong các tiết học và 
qua các bài kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phát hiện những học sinh có khả năng 
trình bày bài, khả năng vận dụng và giải quyết vấn đề, giải quyết tình huống. Thông 
qua GVCN, giáo viên bộ môn giới thiệu để lựa chọn, động viên (trên cơ sở các em 
đăng kí) các em tham gia vào đội tuyển. Tuy nhiên, cũng cần có những tiêu chí nhất 
định:
 - Học sinh thực sự chăm chỉ, tự giác trong học tập.
 - Trình bày chữ viết sạch đẹp, rõ ràng, ít sai chính tả.
 - Có tính kỉ luật trong việc tự học ở nhà.
 - Luôn tự hoàn thành những nhiệm vụ mà giáo viên giao, tự tìm hiểu các tư 
liệu trên mạng, sách tham khảo để bổ sung, mở rộng kiến thức.
 - Tích cực giơ tay phát biểu xây dựng bài, có khả năng phát hiện và giải quyết 
vấn đề nhanh gọn trong các tiết học.
 - Học sinh có chút năng khiếu môn Văn học đặc biệt là làm văn nghị luận xã 
hội.
 Để cho các em học sinh có động lực ôn tập, có hứng thú, quyết tâm cao trong 
ôn luyện, sau khi hình thành và lên danh sách đội tuyển, giáo viên cần gặp gỡ, trao 
đổi  đưa ra nguyên tắc và quan điểm ôn tập của mình cho học sinh như: chăm chỉ, 
ghi chép bài cẩn thận, chủ động tích cực học ở nhà, ôn phần nào nắm chắc phần đó 
đặc biệt các quy định của pháp luật ở lớp 8 và lớp 9. Việc gặp gỡ học sinh còn nhằm 
giúp các em có thiện cảm với giáo viên ôn luyện, vì theo quy luật lây lan tâm lí thì 
học sinh chỉ có hứng thú học tập khi các em thực sự có thiện cảm và yêu quý giáo 
viên, các em sẽ nghe lời và nỗ lực ôn tập hơn, quyết tâm cao hơn rất nhiều. 12/19
 Nội dung kiến thức bồi dưỡng học sinh giỏi không giống như các tiết dạy bình 
thường ở lớp, mà là những kiến thức dự thi học sinh giỏi các cấp. Để học sinh có đủ 
kiến thức, tự tin và có sự sáng tạo khi giải quyết bất kì một kì thi nào thì việc xác 
định các mức độ kiến thức cần cung cấp cho học sinh là một vấn đề quan trọng. Giáo 
viên cần căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông 
và các tài liệu liên quan để xác định lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh đối 
với từng bài, từng chủ đề cụ thể  Các mức độ cần đạt được về kiến thức trong việc 
bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD gồm 3 mức độ tư duy là: nhận biết, thông hiểu 
và vận dụng.
 Giáo viên tham khảo cách ra đề ở các đề thi học sinh giỏi để tìm hiểu cách đặt 
câu hỏi, các dạng bài cho phù hợp và đạt hiệu quả cao.
3. Phương pháp ôn luyện, bồi dưỡng.
3.1. Bồi dưỡng kiến thức bộ môn cho học sinh.
 Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi 
môn GDCD nói riêng, việc bồi dưỡng kiến thức bộ môn cho học sinh là vấn đề quan 
trọng. Với phương châm: dạy chắc kiến thức cơ bản rồi mới nâng cao, mở rộng. 
Trước hết giáo viên cần củng cố cho học sinh những kiến thức cơ bản của từng bài, 
từng chủ đề của chương trình. Học sinh phải nắm chắc kiến thức cơ bản theo chuẩn 
kiến thức, kĩ năng.
 Kiến thức cơ bản đối với các chuẩn mực đạo đức trong chương trình GDCD 
cấp THCS được xác định bao gồm:
 - Khái niệm một phẩm chất đạo đức.
 - Biểu hiện của phẩm chất đạo đức đó (Biểu hiện đúng và biểu hiện trái).
 - Ý nghĩa của các phẩm chất.
 - Cách rèn luyện của học sinh để có được phẩm chất ấy.
 Đối với các chủ đề pháp luật, kiến thức cơ bản học sinh cần nắm vững bao 
gồm:
 - Khái niệm về nội dung một chủ đề pháp luật. 14/19
thiếu sót cho nhau, đồng thời việc học theo từng nhóm cặp cũng giúp học sinh có 
thêm động lực và ý chí cố gắng vươn lên để không bị thua kém bạn cũng như có thể 
hoà nhập cùng với bạn trong nhóm.
 + Giáo viên hướng dẫn học sinh tự học theo hình thức lập sơ đồ tư duy các 
kiến thức cơ bản của bài học. Không đơn giản là sơ đồ tư duy chỉ có kênh chữ trên 
giấy mà học sinh có thể thiết kế sơ đồ tư duy dưới dạng đồ hoạ thông tin trên phần 
mềm canva. Giáo viên giới thiệu cho học sinh đường link canva để học sinh tham 
khảo đề lập sơ đồ tư duy: https://www.canva.com/vi-vn/infographic/mau. Các em sẽ 
sử dụng hình ảnh, màu sắc để thiết kế. Chính điều này sẽ tạo cho các em hứng thú 
học tập, dễ khơi gợi niềm yêu thích học tập hơn là những con chữ dày chi chít. Đồng 
thời, phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của học sinh. Khi thiết kế, các em 
được tự do thoải mái sáng tạo theo ý mình, thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng 
của mỗi em. Thay vì phải ghi chép các câu văn rất dài, học sinh chỉ cần tóm tắt các 
từ khóa chính một cách cô đọng, xúc tích mà vẫn đảm bảo kiến thức cần ghi nhớ. 
Chỉ cần nhìn vào sơ đồ tư duy, học sinh sẽ có cái nhìn tổng quá về những kiến thức 
mình cần ghi nhớ, đâu là trọng tâm, đâu là các ý chính, đâu là các ý phụ. Từ đó giúp 
các em ghi nhớ tốt hơn, không bỏ sót các chi tiết khi học. Có thể nói, đây là phương 
pháp tự học cực kì hiệu quả đối với các em khi ôn thi học sinh giỏi.
3.3. Bồi dưỡng các kĩ năng làm bài.
* Kĩ năng phân tích đề.
 - Phân tích đề là một bước rất cần thiết đối với học sinh trước khi làm bài, nó 
giúp cho các em xác định được yêu cầu của đề một cách chính xác, tránh tình trạng 
hiểu nhầm đề hoặc lạc đề trong quá trình làm bài.
 - Yêu cầu khi phân tích đề, học sinh cần phải đọc hết, đọc kĩ, phải hiểu chính 
xác từng từ, từng chữ trong câu hỏi. 
 - Tôi thường hướng dẫn học sinh thực hiện các bước sau khi phân tích đề:
 + Bước 1: Đọc đề lần thứ nhất – đọc lướt để nhận biết đề bài.
 + Bước 2: Đọc lần hai kết hợp với gạch chân những từ khoá trong câu hỏi. 16/19
 Với câu hỏi loại này, học sinh chỉ cần nắm vững kiến thức cơ bản trong sách 
giáo khoa hoặc theo bản sơ đồ tư duy đã thiết kế.
 Ví dụ 1: Pháp luật là gì? Trình bày đặc điểm, bản chất, vai trò của pháp luật.
 Ví dụ 2: Trong những tài sản sau, tài sản nào thuộc sở hữu quyền sở hữu của 
công dân?
 - Nhà ở.
 - Tài nguyên trong lòng đất.
 - Nguồn lợi thuỷ sản ở ao, hồ đã cho công dân đấu thầu.
 - Phần vốn, tài sản trong doanh nghiệp tư nhân.
 - Đất đai.
 - Rừng núi.
 - Bình gốm cổ được tìm thấy khi đào móng làm nhà.
 (Đáp án: nhà ở, nguồn lợi thuỷ sản ở ao, hồ đã cho công dân đấu thầu, phần 
vốn, tài sản trong doanh nghiệp tư nhân).
 Tuy nhiên, có câu hỏi nhận biết xuất hiện dưới dạng dẫn một câu tục ngữ/ ca 
dao/ danh ngôn  và liên hệ tới phẩm chất đạo đức đã học và nêu hiểu biết của mình 
về phẩm chất đạo đức đó. Với loại câu hỏi này, học sinh cần xác định được phẩm 
chất đạo đức được nói đến sau đó trình bày hiểu biết ở các kiến thức: Khái niệm, biểu 
hiện (nêu tấm gương), ý nghĩa và cách rèn luyện. Học sinh trình bày dưới dạng một 
đoạn văn/bài văn nghị luận xã hội.
 Ví dụ: Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Luôn luôn coi trọng giữ gìn 
của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của 
nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không tham tiền tài, 
không tham sung sướng, không tham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh 
chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến 
bộ.”
 Câu hỏi: Đoạn trích trên có nội dung nói về phẩm chất đạo đức nào em đã 
học? Hãy nêu hiểu biết của em về phẩm chất đạo đức đó?

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_trong_cong_tac_boi.docx