Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh Lớp 2 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)
Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường phổ thông góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác. Nội dung môn Toán thường mang tính logic, trừu tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học được Toán, dạy học Toán ở trường phổ thông nói chung cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “vận dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong quá trình học và áp dụng toán học, học sinh luôn có cơ hội sử dụng các phương tiện công nghệ, thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt là máy tính điện tử và máy tính cầm tay hỗ trợ quá trình biểu diễn, tìm tòi, khám phá kiến thức, giải quyết vấn đề toán học.
Chương trình môn Toán tiểu học hình thành, phát triển ở học sinh năng lực toán học với các thành tố: Tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm.
Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 cũng chỉ rõ: Giáo dục Toán học hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung: Tự chủ và tự học; Kỹ năng giao tiếp và hợp tác nhóm với các thành viên khác; Giải quyết vấn đề theo nhiều cách khác nhau một cách sáng tạo và triệt để. Đồng thời các năng lực chuyên môn được rèn luyện và phát triển như ngôn ngữ, tính toán, tin học, thể chất, thẩm mỹ, công nghệ, tìm hiểu tự nhiên xã hội.
Năm học 2023-2024 này là năm thứ ba thực hiện chương trình GDPT 2018 đối với lớp 2, Sở Giáo dục Hải Phòng tiếp tục chỉ đạo các nhà trường kế thừa và phát huy những yêu cầu đã đạt được, khắc phục dần các hạn chế trong giảng dạy phát huy năng lực học Toán của học sinh.
Tại nhà trường nơi tôi công tác, giáo viên tích cực thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, ngành, cơ quan chủ quản. Nhà trường cùng một lúc áp dụng song song hai chương trình giáo dục: Chương trình 2006 với lớp 5 và CT GDPT 2018 với lớp1; 2; 3,4 giáo viên đã quan tâm tới hình thành và phát triển năng lực học Toán cho học sinh Tiểu học nói chung và cho học sinh lớp 2 nói riêng. Vai trò người thầy sẽ chuyển từ dạy học lấy học sinh làm trung tâm sang dạy học lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học.
* Ưu điểm của giải pháp:
- Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trong đó học sinh được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề. Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn với các nội dung.
- Linh hoạt cho tất cả các đối tượng học sinh, bất kể nền tảng kiến thức hoặc trình độ hiểu biết.
- Học sinh học các kĩ năng để học tập tốt hơn và chịu trách nhiệm về quá trình học tập của mình.
- Tạo niềm hứng thú, sự say mê học toán, bởi các em có thích học toán thì các em mới có sự suy nghĩ, tìm tòi các phương pháp giải bài toán một cách thích hợp.
* Tồn tại, bất cập:
- Các năng lực chính phải được xác định và phân loại cho từng lớp, điều này rất khó khăn trong quá trình áp dụng thực tế.
- Trình độ của giáo viên không đồng đều, còn bị ảnh hưởng cách đào tạo trước đây ở các trường đại học đó là phương pháp lấy người thầy làm trung tâm, học sinh là người nhận kiến thức thụ động, áp đặt. Họ không hiểu những phương pháp dạy học hiện đại, phát triển năng lực học sinh. Vì thế, để nhanh chóng thay đổi họ theo chiều hướng mới cần có thời gian nhất định.
- Giáo viên mới dừng lại ở việc cung cấp kiến thức, kĩ năng mà chưa chú trọng dạy cho học sinh cách học (phương pháp làm việc trí óc), chưa phát huy năng lực của học sinh.
- Các em chưa đọc kĩ đề bài, đọc qua loa, xác định yêu cầu chưa đúng, không hiểu thuật toán, sau đó giải bài toán ngay. Đôi khi không biết nên làm gì để thực hiện yêu cầu của bài.
- Nhiều bài toán, học sinh lúng túng không hiểu yêu cầu. Cụ thể là những trò chơi xúc xắc, học sinh không có xúc xắc trong hộp đồ dùng. Hơn nữa việc hiểu cách chơi với các em không dễ. Ví dụ: Trò chơi “Cầu thang, cầu trượt”, trang 56, Toán 2 tập Một.
- Có những bài toán để tìm được đáp án đúng cho bài, học sinh phải suy luận, tư duy và làm qua vài bước trung gian mới tìm được câu trả lời, không phải học sinh nào cũng hiểu được cách làm. Chẳng hạn bài 4/ 43- Toán 2, tập Một, học sinh không hiểu cách làm lần lượt: Tính kết quả phép tính( trên con ong)-> nối với kết quả( trên bông hoa) ->Đếm xem bông hoa nào có nhiều đường nối đến ( chính là bông hoa có nhiều ong đậu nhất.)
- Kiến thức về thực tế đời sống của học sinh lớp 2 còn ít nên những bài có yêu cầu thực tế còn xa lạ với các em. Có học sinh tìm kết quả đúng nhưng sai lời giải hoặc ghi danh số không đúng.
- Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh lớp 2 còn yếu về giải toán có lời văn do kĩ năng viết còn chậm, kỹ năng trình bày các bài toán còn hạn chế. Các em không nhớ các bước giải, khả năng tư duy của một số học sinh chưa tốt, chưa nắm được bản chất của dạng toán.
Để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, tôi mạnh dạn chia sẻ cùng đồng nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn toán cho học sinh lớp 2 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh Lớp 2 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)

Chương trình môn Toán tiểu học hình thành, phát triển ở học sinh năng lực toán học với các thành tố: Tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm định hướng và lựa chọn nghề nghiệp, rèn luyện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm. Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 cũng chỉ rõ: Giáo dục Toán học hình thành và phát triển cho học sinh những năng lực chung: Tự chủ và tự học; Kỹ năng giao tiếp và hợp tác nhóm với các thành viên khác; Giải quyết vấn đề theo nhiều cách khác nhau một cách sáng tạo và triệt để. Đồng thời các năng lực chuyên môn được rèn luyện và phát triển như ngôn ngữ, tính toán, tin học, thể chất, thẩm mỹ, công nghệ, tìm hiểu tự nhiên xã hội. Năm học 2023-2024 này là năm thứ ba thực hiện chương trình GDPT 2018 đối với lớp 2, Sở Giáo dục Hải Phòng tiếp tục chỉ đạo các nhà trường kế thừa và phát huy những yêu cầu đã đạt được, khắc phục dần các hạn chế trong giảng dạy phát huy năng lực học Toán của học sinh. Tại nhà trường nơi tôi công tác, giáo viên tích cực thực hiện sự chỉ đạo của Bộ, ngành, cơ quan chủ quản. Nhà trường cùng một lúc áp dụng song song hai chương trình giáo dục: Chương trình 2006 với lớp 5 và CT GDPT 2018 với lớp1; 2; 3,4 giáo viên đã quan tâm tới hình thành và phát triển năng lực học Toán cho học sinh Tiểu học nói chung và cho học sinh lớp 2 nói riêng. Vai trò người thầy sẽ chuyển từ dạy học lấy học sinh làm trung tâm sang dạy học lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của người học. * Ưu điểm của giải pháp: 2 - Có những bài toán để tìm được đáp án đúng cho bài, học sinh phải suy luận, tư duy và làm qua vài bước trung gian mới tìm được câu trả lời, không phải học sinh nào cũng hiểu được cách làm. Chẳng hạn bài 4/ 43- Toán 2, tập Một, học sinh không hiểu cách làm lần lượt: Tính kết quả phép tính( trên con ong)-> nối với kết quả( trên bông hoa) ->Đếm xem bông hoa nào có nhiều đường nối đến ( chính là bông hoa có nhiều ong đậu nhất.) - Kiến thức về thực tế đời sống của học sinh lớp 2 còn ít nên những bài có yêu cầu thực tế còn xa lạ với các em. Có học sinh tìm kết quả đúng nhưng sai lời giải hoặc ghi danh số không đúng. - Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh lớp 2 còn yếu về giải toán có lời văn do kĩ năng viết còn chậm, kỹ năng trình bày các bài toán còn hạn chế. Các em không nhớ các bước giải, khả năng tư duy của một số học sinh chưa tốt, chưa nắm được bản chất của dạng toán. Để khắc phục những tồn tại, bất cập nêu trên, tôi mạnh dạn chia sẻ cùng đồng nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn toán cho học sinh lớp 2 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018”. III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN: III.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến: Giải pháp 1. Chú trọng tới từng học sinh Dạy học chú trọng tới từng học sinh nhằm giúp các em có tinh thần trách nhiệm với việc học và lên kế hoạch sử dụng quỹ thời gian hợp lý trong từng hoạt động học tập cuả cá nhân. Đây là một kỹ năng khó để thành thạo đối với các em. Vì vậy giáo viên cần kiên trì và luôn sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ học sinh, khuyến khích làm việc nhóm, tôi luôn cho rằng làm việc độc lập không có nghĩa là làm việc một mình mà có sự hợp tác cùng phát triển. Ngay từ khi nhận lớp, tôi đã xem kết quả học tập năm học trước, kết hợp việc quan sát trên lớp phân loại đối tượng học sinh, ghi chép những mảng kiến thức học sinh còn yếu. Từ đó quan tâm tới đối tượng một cách phù hợp. Với học sinh yếu hơn, thường được gọi tương tác, chia sẻ nhiều hơn. Đồng thời kết hợp việc đánh giá học sinh theo thông tư 27, tôi 4 Trong mỗi tiết học, khi giáo viên phát hiện dấu hiệu học sinh mệt mỏi cần thay đổi không khí lớp học như cho học sinh đứng dậy và di chuyển hoặc giải lao nhẹ. Cũng như cơ bắp, bộ nào cũng cần được nghỉ ngơi và duy trì bầu không khí tích cực và tạo ra một môi trường thúc đẩy học tập bằng cách đưa ra những phản hồi, góp ý và ghi nhận nỗ lực của học sinh. Chính vì vậy trong mỗi tiết học, ngay đầu tiết học tôi thường xuyên cho các em khởi động bằng cách múa, hát hoặc vận động theo bài hát. Ví dụ khi dạy bài: Phép cộng (qua 10) trong phạm vi 20” (trang 26, tập Một), các em vận động theo bài hát “Tập đếm”. Có thể cho cá nhân/ nhóm hát thưởng cho bạn trả lời đúng, hoặc khi học bài: Tia số, số liền trước, số liền sau trang 10( tập một) giúp học sinh học mà chơi, chơi mà học bằng cách cho học sinh đố nhau để tìm số liền trước, liền sau giúp học sinh bớt căng thẳng. Giải pháp 4. Giúp học sinh hiểu sâu và giải quyết vấn đề sáng tạo Đây là điều rất cần thiết trong dạy học toán, dạy học phát triển tư duy toán học, tư duy logic. Ví dụ: Thay vì tìm ra câu trả lời của học sinh bằng cách hỏi đúng hay sai, hãy hỏi các em nhiều câu hỏi hơn, những câu hỏi gợi mở, khích lệ. Cần giúp học sinh khám phá kiến thức trong quá trình học nhất là đối với những học sinh rụt rè, học sinh có yếu tố tâm lý không vững vàng. Bằng trực quan, dẫn dắt học sinh tự tìm kiến thức, giúp các em hứng thú, độc lập suy nghĩ giải quyết yêu cầu. Với bài: “Số bị trừ, số trừ, hiệu” (trang 14, tập Một), tôi tiến hành phần Khám phá như sau: Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh 1. * Khám phá: - GV trình chiếu tranh trong sgk/14 Còn lại bao nhiêu - Hs quan sát và trả lời câu hỏi: con chim? Hỏi:- Trong tranh bao nhiêu con chim? + Trong tranh có tất cả 12 con - Có mấy con chim bay đi? 6 đi số trừ. - Cá nhân, đồng thanh nêu. Giải pháp 5. Tư duy phát triển Người giáo viên có năng lực tổ chức các hoạt động học tập là biết đưa học sinh vào trung tâm của hoạt động học, là giúp học sinh hiểu rằng sai sót là một phần tất yếu của quá trình học tập. Khi phát hiện lỗi sai giáo viên không nên tự chỉnh sửa mà phải giúp học sinh được tiếp cận bằng những câu hỏi tập trung vào điều học sinh học được từ lỗi sai đấy. Giáo viên hãy cẩn trọng lời nói trong các tình huống thử thách. Ví dụ: Khi học bài 2 trang 75 SGK Toán lớp 2 Tập 2: Người ta làm một cây cầu gỗ trên hồ nước và đóng cọc làm thành cầu (như hình vẽ). Hai cọc cạnh nhau cách nhau đúng 1 m. a) Chiều dài đoạn AB là m. b) Độ dài cây cầu được tính bằng độ dài đường gấp khúc ABCD. Độ dài cây cầu là m. GV cần hướng dẫn học sinh tìm chiều dài của đoạn AB bằng cách quan sát hình vẽ và đếm số khoảng cách giữa các cọc (một bên cầu). Để tìm ra độ dài của cây cầu là bao nhiêu mét học sinh tư duy để tìm ra kết quả đúng. Các em đo chiều dài của đoạn AB, đoạn BC và đoạn CD sau đó sử dụng phép cộng hoặc có em thì đếm số khoảng cách. Độ dài đường gấp khúc bằng tổng độ dài các đoạn thẳng tạo nên đường gấp khúc đó. Để tránh hs làm sai, giáo viên sẽ đưa ra câu hỏi để học sinh tự tìm ra kết quả đúng. Giải pháp 6. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo 8 gắn thực tiễn với lí thuyết, các em biết so sánh tìm ra vật nào nặng hơn, vật nào nhẹ hơn. Giải pháp 8. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thực hành trong dạy học. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Người giáo viên tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử, mạng trường học kết nối Với các tiết dạy có thể sử dụng công nghệ thông tin tôi đều sử dụng, học sinh rất hứng thú học, hiệu quả lại cao. Chẳng hạn, dạy bài Bảng cộng qua 10-sgk trang 34 tập một, khi hướng dẫn bài tập 2: Tìm cá cho mèo Giáo viên có thể trình chiếu bài 2 trang 34, đưa câu chuyện vui “ Mèo tìm cá” lồng vào bài toán, gây hứng thú cho học sinh qua việc quan sát tranh. Học sinh tính nhẩm kết quả các phép tính ở mèo rồi tìm số ghi ở con cá là kết quả của mỗi phép tính đó, từ đó biết được mèo nào lấy được cá nào. Từ bài toán này, GV có thể đặt học sinh vào tình huống có vấn đề khác bằng cách thay số ở cá 13 thành 11 (trên màn hình trình chiếu), rồi hỏi “Mèo nào không lấy được cá?” , giúp học sinh phát huy năng lực. 10 những kiến thức đã học, khai thác kinh nghiệm, năng lực bản thân. Sau đó, học sinh kiểm nghiệm chúng qua thực tiễn và nhờ đó, các em tự làm giàu, làm phong phú thêm vốn kinh nghiệm cho chính bản thân mình. Việc học tập không chỉ diễn ra trong lớp học, ở nhà trường mà còn có thể ở những nơi công cộng, cộng đồng dân cư, nơi học sinh được tiếp xúc, giao lưu, trò chuyện với nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. - Làm cho việc học của học sinh thú vị, hấp dẫn, tự giác: Tính tự giác học tập không chỉ là hệ quả mà còn là điều kiện bảo đảm quá trình học tập thành công, hiệu quả. Dạy học phát triển năng lực coi trọng việc phát triển trí thông minh của học sinh. Việc tổ chức các hoạt động dạy học hợp lý sẽ giúp học sinh vận dụng thành công trong học tập và nâng cao chất lượng cuộc sống của mình, từ đó, học sinh cảm nhận được việc học là thú vị, hấp dẫn, nhận thấy lợi ích thực tiễn của học tập nên các em sẽ tích cực, tự giác hơn. - Giúp mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh ngày càng trở nên thân thiện, bền vững: Trong quá trình dạy học phát triển năng lực, giáo viên luôn hiểu rõ cá nhân học sinh (trí thông minh, năng lực, sở thích, hứng thú, tình cảm, hoàn cảnh, điều kiện học tập.) và cư xử thân thiện với các em. Hơn nữa giáo viên còn đối xử cá biệt với từng học sinh để giúp phát triển những điều tích cực, hạn chế những điểm tồn tại trong mỗi học sinh. Nhờ đó dạy hoc tích cực luôn giúp học sinh tiến bộ và phát triển không ngừng. Khi đó, học sinh cảm nhận được vai trò của người thày và thêm yêu quý, gần gũi với các thày cô. - Xây dựng mối quan hệ giữa học sinh với nhau thêm thân thiết, gắn bó: Dạy học phát triển năng lực coi trọng mối quan hệ giữa học sinh với nhau, trong đó nhóm là một hình thức tổ chức cơ bản. Qua nhóm, các em được tổ chức trao đổi, khuyến khích, thảo luận, giúp đỡ, hợp tác, phối hợp, tranh luận tích cực với nhau. Mối quan hệ giữa các học sinh trở nên thân thiết. Ngoài ra trong đánh giá, giáo viên coi trọng sự tiến bộ của cá nhân học sinh, không so sánh kết quả học tập của các học sinh với nhau, từ đó, trong lớp sẽ không còn hiện tượng so bì, ghen tỵ giữa các học sinh. 12 - Được áp dụng vào việc dạy Toán lớp 2 sách kết nối tri thức với cuộc sống trong Trường Tiểu học nơi tôi công tác. - Đề tài này không chỉ áp dụng được cho các em học sinh lớp 2 còn có thể áp dụng cho học sinh các khối lớp ở cấpTiểu học và trong tất cả các trường Tiểu học. III.4. Hiệu quả, lợi ích thu được từ sáng kiến: * Hiệu quả: Nhờ áp dụng các biện pháp nêu trên, kết quả khảo sát môn toán học kì 1 của lớp 2E trường tiểu học Thị Trấn, tôi thu được kết quả như sau: Tổng số 1 -> 4 điểm 5 -> 6 điểm 7 -> 8 điểm 9 -> 10điểm HS SL % SL % SL % SL % 34 0 0 1 3% 8 24% 25 73% Kết quả trên cho thấy: Hiệu quả dạy học cao, chuyển biến rõ rệt cả về chất và lượng. Nhìn vào bảng kết quả trên, tôi thấy đó là kết quả thực chất của các em. Kết quả đó cho chúng ta thấy được có phương pháp tốt thì học sinh làm bài tốt hơn. Chất lượng học của học sinh không tự dưng mà có được, mà đòi hỏi mỗi người giáo viên chúng ta biết phương pháp phát huy năng lực của các em trong học toán. Minh chứng cho thấy chất điểm thi khảo sát của lớp đạt chất lượng cao, góp phần đưa chất lượng môn Toán của trường đạt chỉ tiêu. Điều đó chứng tỏ việc áp dụng các giải pháp mới đem lại hiệu quả thiết thực. Qua đó, tôi khẳng định sáng kiến:“ Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn toán cho học sinh lớp 2 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018” đã có hiệu quả tốt, mà không tốn kém về kinh tế. Trong năm học này tôi sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp nhằm phát huy năng lực của người học với học sinh lớp mình giảng dạy. * Lợi ích khác: - Học sinh có niềm yêu thích say mê học Toán. 14
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_m.docx