Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp dạy học phần “Nói và nghe” trong Chương trình Ngữ văn Lớp 6, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống

1. Lý do chọn đề tài

"Một trong những hình thức gây tổn thương phổ biến và rõ ràng nhất là không lắng nghe khi người khác đang cố nói điều gì đó với bạn." (Karen Casey)

Nói đến môn Ngữ văn không thể không nhắc đến việc dạy và học cách sử dụng bốn kĩ năng cho học sinh: Nghe - Nói - Đọc - Viết. Nếu như Nghe và Đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì Nói và Viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống, theo những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (lời, mạch lạc, liên kết, các nghi thức lời nói, quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng, sức hấp dẫn,...). Luyện nói tốt sẽ giúp học sinh có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong học tập cũng như trong cuộc sống.

Mỗi tiết “Nói và nghe” trong chương trình Ngữ Văn THCS phản ánh khá rõ ràng về nhận thức, tư tưởng, tình cảm của học sinh qua những vấn đề về văn chương và đời sống, góp phần trong quá trình đào tạo nên những thế hệ học sinh khi ra trường không chỉ biết suy nghĩ, sáng tạo ý tưởng mà còn phải biết nói ra mạch lạc những điều mình nghĩ, biết truyền đạt chính xác thông tin, biết thuyết phục hiệu quả … để năng động nắm bắt mọi cơ hội thành công cho bản thân.

Trong quá trình dạy học tại nhà trường, tôi nhận thấy đa số học sinh đều rất “ngại” học tiết “Nói và nghe”. Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 6 mới đã tăng thời lượng số tiết “Nói và nghe” hơn nhiều so với chương trình cũ. Đây là điều thuận lợi nhưng cũng đòi hỏi cần phải có những kĩ năng, cách dạy, cách hướng dẫn cho học sinh thật tỉ mỉ và dễ hiểu, dễ thực hiện. Khi được tập huấn, tiếp cận nội dung chương trình GDPT 2018, tôi đã bắt tay vào nghiên cứu, đưa ra những giải pháp để giúp các em rèn luyện kĩ năng nói và nghe trong chương trình Ngữ văn 6.

2. Mục đích nghiên cứu.

- Nâng cao chất lượng dạy và học cho môn Ngữ văn của học sinh trong giai đoạn dạy học trực tuyến và trực tiếp tại THCS Việt Nam-Angieri và chương trình thay SGK mới từ năm 2021.

- Tiến tới nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh qua chuyển đổi số. Ứng dụng thực tiễn trong đời sống hàng ngày một cách có hiệu quả ,

- Đưa ra những giải pháp khắc phục, phát huy tính tích cực của bộ môn Ngữ văn trong chất lượng giáo dục chung

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu thực trạng việc công tác giảng dạy của nhà trường,từ đó tìm hiểu các phương pháp dạy học ứng dụng CNTT và tích hợp liên môn.

4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng: Áp dụng cho trường THCS Việt Nam-Angieri trong năm học 2021-2022.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp quan sát.

- Điều tra thăm dò.

- Phương pháp tổng hợp rút kinh nghiệm.

- Phương pháp đối chiếu, so sánh...

6. Thời gian nghiên cứu

- Từ tháng 9/2021 đến tháng 4/2022

docx 43 trang Thanh Ngân 05/04/2025 230
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp dạy học phần “Nói và nghe” trong Chương trình Ngữ văn Lớp 6, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp dạy học phần “Nói và nghe” trong Chương trình Ngữ văn Lớp 6, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống

Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp dạy học phần “Nói và nghe” trong Chương trình Ngữ văn Lớp 6, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống
 huấn, tiếp cận nội dung chương trình GDPT 2018, tôi đã bắt tay vào nghiên cứu, 
đưa ra những giải pháp để giúp các em rèn luyện kĩ năng nói và nghe trong chương 
trình Ngữ văn 6. 
2. Mục đích nghiên cứu.
- Nâng cao chất lượng dạy và học cho môn Ngữ văn của học sinh trong giai 
đoạn dạy học trực tuyến và trực tiếp tại THCS Việt Nam-Angieri và chương 
trình thay SGK mới từ năm 2021.
- Tiến tới nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh qua chuyển 
đổi số. Ứng dụng thực tiễn trong đời sống hàng ngày một cách có hiệu quả ,
- Đưa ra những giải pháp khắc phục, phát huy tính tích cực của bộ môn Ngữ văn 
trong chất lượng giáo dục chung
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Nghiên cứu thực trạng việc công tác giảng dạy của nhà trường,từ đó tìm 
hiểu các phương pháp dạy học ứng dụng CNTT và tích hợp liên môn.
4. Đối tượng nghiên cứu
 Đối tượng: Áp dụng cho trường THCS Việt Nam-Angieri trong năm học 
2021-2022. 
5. Phương pháp nghiên cứu
 - Phương pháp quan sát.
 - Điều tra thăm dò.
 - Phương pháp tổng hợp rút kinh nghiệm.
 - Phương pháp đối chiếu, so sánh...
6. Thời gian nghiên cứu
 - Từ tháng 9/2021 đến tháng 4/2022
 2 năm học.Đặc biệt tổ chuyên môn luôn chú trọng đổi mới phương pháp, dự giờ rút 
kinh nghiệm, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để xây dựng đội ngũ vững mạnh. Tổ 
chức nhiều chuyên đề thảo luận cùng trao đổi trong tổ hàng tuần để mỗi giáo viên 
tự trang bị cho mình nhiều kinh nghiệm quí báu không ngừng nâng cao chất lượng 
hiệu quả giờ dạy, nâng cao hơn nữa năng lực chuyên môn của từng giáo viên.
 Nhà trường hoàn thiện từng bước cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu dạy và 
học theo nội dung, chương trình đổi mới khá tốt.
 Bản thân giáo viên trong trường luôn có sự nỗ lực học hỏi kinh nghiệm 
từ đồng nghiệp, tìm tòi, nghiên cứu tài liệu tự rút kinh nghiệm sau mỗi giờ lên 
lớp. Tham gia tập huấn đầy đủ các moddul và đạt kết quả cao.
 2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế.
 * Với học sinh: 
 Luyện nói trong nhà trường là để nói theo chủ đề, những vấn đề không 
quen thuộc như trong giao tiếp hàng ngày lại yêu cầu có mạch lạc, liên kết, không 
được nói tùy tiện. Đứng trước môi trường này nhiều học sinh thường ngày biết 
ăn nói sinh động bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu. Bên cạnh đó, có một thực 
tế là càng lên lớp lớn, các em càng ngại nói, ngại phát biểu trước tập thể. Biết 
cũng không nói. Có nhiều em lên bục giảng đứng nói mà không dám nhìn xuống 
lớp, tay chân như thừa thãi, vụng về Có em ấp úng một chút rồi không thể nói 
tiếp được nữa.Cá biệt còn có những trường hợp không nói được một ý nào; không 
biết dùng từ, sắp xếp từ để biểu đạt ý nghĩ. Một phần, ngoài giờ học các em quen 
nói tự do, còn trong giờ tập nói, các em phải trả lời, phải suy nghĩ, phải giữ gìn 
lời nói của mình dưới sự giám sát của giáo viên. Phần khác, còn rất nhiều em phát 
âm chưa tốt, nói sai nhiều, khi trả lời học sinh có thói quen lặp lại từ ngữ nhiều, 
diễn đạt vụng về, thiếu mạch lạc, tác phong chưa mạnh dạn, không dựa và đề 
cương để nói mà thường là đọc,vì thế mà thiếu tự nhiên không đúng ngữ điệu nói, 
không kết hợp được các yếu tố phi ngôn ngữ dẫn đến bài nói không thuyết phục, 
không có hiệu quả cao.
 *Với giáo viên: 
 4 2. Khi thực hiện bài nói trước đám - Nói không rõ, còn 
 77 100%
 đông em thực hiện tốt không? mất bình tĩnh 
 3. Trong chương trình Ngữ văn 6 có - Có 10 13 %
 các tiết học Nói và nghe, em có hứng 
 - Không, rất sợ vì 
 thú với các tiết học này không?
 không biết nói trước 67 87%
 đám đông.
 4. Nếu bây giờ cho em có cơ hội được - Rất sẵn sàng 0 0
 nói về một chủ đề nào đó trước đám 
 - Không dám nói
 đông thì em có sẵn sàng để nói không? 77 100%
 Từ kết quả khảo sát trên, tôi thấy một thực trạng sợ nói và không dám nói 
trước đám đông của các em. “Khéo nói gói thiên hạ” vậy mà các em lại rất sợ nói, 
không dám bộc lộ bởi một nguyên nhân cơ bản là các em chưa được học, chưa 
được hướng dẫn, luyện tập một cách bài bản. Từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn 
đưa ra các giải pháp sau để giúp bản thân và chia sẻ với đồng nghiệp có thể hướng 
dẫn các em nắm được “Chìa khóa thành công” nhờ những kĩ năng mềm vô cùng 
quan trọng này. 
 3. Các giải pháp thực hiện.
 3.1. Giải pháp thứ nhất: Giáo viên cần nắm vững nguyên tắc dạy học 
tiết “Nói và nghe”.
 Để một tiết “Nói và nghe” được hiệu quả giáo viên phải nắm vững bốn 
nguyên tắc cơ bản sau: 
 - Nguyên tắc 1: 100% học sinh phải được nói và nghe. 
 + Với nguyên tắc này giáo viên cần xác định nhiệm vụ thật rõ ràng cho người 
nói và người nghe. Người nói có nhiệm vụ trình bày bài nói của mình và nhận 
những phản hồi từ người nghe. Còn người nghe có nhiệm vụ lắng nghe và phản 
hồi bài nói cho bạn, đó là những lời nhận xét, những góp ý về bài nói, về cách thể 
hiện
 6 người nghe hiểu dung câu 
 câu chuyện. chuyện.
3. Nói to, rõ ràng, Nói nhỏ, khó Nói to nhưng đôi Nói to, truyền 
truyền cảm. nghe; nói lắp, chỗ lặp lại hoặc cảm, hầu như 
 ngập ngừng ngập ngừng 1 không lặp lại 
 vài câu. hoặc ngập ngừng.
4. Sử dụng yếu tố Điệu bộ thiếu tự Điệu bộ tự tin, Điệu bộ rất tự 
phi ngôn ngữ phù tin, mắt chưa nhìn mắt nhìn vào tin, mắt nhìn vào 
hợp. vào người nghe; người nghe; nét người nghe; nét 
 nét mặt chưa biểu mặt biểu cảm mặt sinh động.
 cảm hoặc biểu phù hợp với nội 
 cảm không phù dung câu 
 hợp. chuyện.
5. Mở đầu và kết Không chào hỏi/ Có chào hỏi/ và Chào hỏi/ và kết 
thúc hợp lí và không có lời có lời kết thúc thúc bài nói một 
 kết thúc bài nói. bài nói. cách hấp dẫn.
TỔNG ĐIỂM: ../10 điểm
 8 .) Cách nghe: tập trung toàn bộ tâm ý để nghe chú ý đến thái độ, cử chỉ, điệu 
bộ khi nghe. 
 .) Cách ghi chép: có mảnh giấy nhỏ (hoặc quyển sổ nhỏ) ghi chép vắn tắt 
những gì đã nghe. 
 .) Cách phản hồi: Dùng kĩ thuật 1-3-2-1, bảng kiểm, bảng tiêu chí đánh giá. 
 - Nguyên tắc 4: Đa dạng hóa các hoạt động tổ chức dạy học.
 Một tiết “Nói và nghe”mà giáo viên chỉ chăm chăm mời lần lượt hết em này 
rồi đến em kia lên bảng để thể hiện thì tiết luyện nói sẽ nhanh chóng nhàm chán 
và đôi khi trở thành áp lực đối với học sinh. Do vậy, giáo viên cần linh hoạt và 
đa dạng hóa các hoạt động tổ chức như: chia sẻ cặp đôi, chia sẻ nhóm, đổi nhóm 
để chia sẻ, chia sẻ trạm
 3.2. Giải pháp thứ hai: Cần nắm vững quy trình của tiết“Nói và nghe”
 3.2.1. Trước khi dạy học tiết “Nói và nghe”, giáo viên tổ chức, hướng dẫn 
học sinh chuẩn bị bài nói và tập luyện.
 Các em chuẩn bị giới thiệu, thuyết trình, trình bày nội dung gì (đã có bài tập 
nêu trong SGK), thời gian chuẩn bị tùy vào nội dung và hình thức tổ chức, nhưng 
không cần nhiều (vì đã có nội dung từ đọc và viết). Từ nội dung chuẩn bị đó giáo 
viên hướng dẫn học sinh luyện tập nói ở nhà dựa vào lưu ý trong sách giáo khoa:
 - Tự tin và thoải mái. Chú ý chào hỏi khi bắt đầu và cảm ơn khi kết thúc bài 
nói. 
 - Bám sát mục đích chia sẻ trải nghiệm để thống nhất trong cách dùng từ 
ngữ xưng hô và tập trung vào diễn biến câu chuyện. 
 10 +Cách 1: (bắt đầu bằng 1 câu hỏi) GV đặt câu hỏi: Tại sao chúng ta lại cần 
viết, nói nghe về những trải nghiệm của bản thân? -> HS làm việc theo kĩ thuật 
Think-Write-Pair - Share
 +Cách 2: (Bắt đầu bằng nghệ thuật- bằng bản nhạc thư thái, hoặc video về 
phong cảnh) GV cho HS xem 1 clip về Thác Bản Giốc, ghi lại cảm nhận của em 
khi xem clip. Rồi chia sẻ cặp đôi theo kĩ thuật Think-Write-Pair -Share
 https://www.youtube.com/watch?v=pKxmozik260
 +Cách 3: (bắt đầu bằng 1 câu chuyện) GV cho HS xemclip về 1 chuyến 
phiêu lưu, về một sự khám phá văn hóa hoặc 1 lấy 1 video 1 bạn nhỏ giới thiệu 
sách -> vì sách là cách nuôi dưỡng tâm hồn rất tốt => yêu cầu học sinh nghe, xem 
xong thì tóm tắt lại nội dung chính của clip bằng vài ba câu văn ngắn-> chia sẻ 
cặp đôi theo kĩ thuật Think-Write-Pair - Share
 * Hoạt động 2: Thực hành nói và nghe
 - Trước khi nói và nghe: giáo viên hướng dẫn cho học sinh xác định được 
mục đích, nội dung, người nghe, không gian, thời gian. Liệt kê được các ý chính 
cần nói. Những điều cần lưu ý để nói và nghe tốt.
 - Khi nói và nghe: giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện nói và nghe theo 
nhóm: nói ở nhóm 2 hoặc nhóm 4; nói trước lớp 1-2 học sinh. Tổ chức cho học 
sinh đánh giá, nhận xét.
 - Kết thúc: 
 + Hướng dẫn học sinh tự đúc kết bài học theo 3-2-1.
 + Học sinh chia sẻ cặp đôi
 + Nhận xét: Khuyến khích học sinh về nhà luyện tập nói, quay lại thành 
video.
 + Học sinh phát biểu trước lớp: 1-2 học sinh.
 Ví dụ minh họaBài 1-Tiết 15, 16: Nói và nghe: Kể lại một trải nghiệm của 
em, hoạt động 2 được cụ thể như sau:
 HOẠT ĐỘNG 2: THỰC HÀNH NÓI NGHE (30 phút)
 a. Mục tiêu: Kể lại được một trải nghiệm đáng nhớ đối với bản thân. 
 12 + Đồ vật, mô hình: cầm theo một đồ vật hoặc 
một mô hình liên quan đến câu chuyện em đã trải 
qua. 
b. Bước 2: HS luyện nói 1. Nói trong nhóm
 - Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ 2. Nói trước lớp
 +Lớp chia thành 8 nhóm, mỗi nhóm 4 bạn. 3. Nhận xét
Mỗi người nói cho cả nhóm nghe, cả nhóm nhận 
xét, góp ý theo bảng kiểm ở SGK trang 78 bằng 
cách cho điểm tối đa là 10. Từ 1-4 điểm là Chưa 
đạt; từ 5-> 10 điểm là Đạt 
 +GV gọi 1 hoặc 2 bạn nói trước lớp. Các bạn 
khác làm việc nhóm đánh giá bạn theo bảng kiểm 
ở SGK trang 78 
 - Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS luyện nói 
ở nhóm, rồi nói trước lớp 
 - Bước 3: Báo cáo kết quả: GV gọi 1,2 bạn 
đứng lên nói trước lớp. 
 - Bước 4: Đánh giá kết quả thực hiện: 
 +HS làm việc nhóm nhận xét theo kĩ thuật 3-
2-1, đánh giá bài nói của bạn theo bảng kiểm 
 + Cộng điểm của các nhóm lại 
 + GV cho điểm-> chia trung bình ra điểm 
chung. +GV nhận xét, cho điểm-> chốt cho điểm 
 BẢNG KIỂM
 PHIẾU ĐÁNH GIÁ THEO TIÊU CHÍ
 Nhóm:.
 14 Tình hình dịch bệnh covid ngày càng có diễn biến phức tạp nên nhiều 
trường học phải chuyển từ dạy học trực tiếp sang dạy học trực tuyến. Việc dạy 
học hiện nay gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt với tiết dạy “Nói và nghe”. Khi dạy 
học trực tuyến GV gặp nhiều khó khăn như: Việc tương tác với học sinh do học 
trên lớp học ảo; mạng internet chập chờn; nhiều học sinh không hoàn thành bài 
tập, không trả lời câu hỏi khi giáo viên yêu cầu; Ý thức tự học của học sinh chưa 
cao, các em mải chơi hơn mải học. ...Vì vậy, giải pháp này được sử dụng cả khi 
dạy học trực tuyến và trực tiếp.
 Tiết “Nói và nghe” học sinh cả lớp đều phải được nói, tuy nhiên vì thời 
lượng tiết học chỉ có 45 phút sẽ không tránh khỏi việc có nhiều em chưa được 
nói, hoặc nếu muốn được nói thì lại phải đến giờ học sau với chủ đề khác. Với sự 
phát triển của CNTT thì việc các em có thể hiện bài nói của mình là điều có thể. 
Tôi đã ứng dụng các phần mềm, ứng dụng như Zalo, Mesenger, Padlet để các 
em thỏa sức luyện tập và phát huy khả năng nói của mình.
 Trước khi thực hiện giờ luyện nói, tôi hướng dẫn các em chuẩn bị ở nhà. 
Dựa vào phần chuẩn bị các em luyện tập và thu lại video. Video đó được gửi lên 
Padlet để cô giáo và các bạn có thể vào xem và góp ý. Khi được góp ý thì bài nói 
của các em trở nên hoàn thiện hơn, bước đầu các em tự tin hơn và mạnh dạn nói 
trước nhóm cũng như trước tập thể lớp. Việc được xem sản phẩm nói của các bạn 
cũng là cơ hội để các em tự chỉnh sửa và hoàn thiện cho mình. 
 Nói và nghe là kĩ năng mềm vô cùng quan trọng nó quyết định đến sự 
thành công và chi phối trong suốt quá trình thực hiện do vậy nếu chỉ thực hiện 
trong một vài tiết học thì hiệu quả chưa thực sự được khai thác hết, năng lực của 
các em chưa thực sự được bộc lộ hết. Giáo viên cần tạo cho các em một môi 
trường thuận lợi để các em được thể hiện, được rèn luyện. Ngoài những chủ đề 
trong chương trình học thì có thể đưa thêm những chủ đề khác hoặc khuyến khích 
các em đọc sách và thu âm, quay video lại nội dung sau đó gửi vào Padlet hoặc 
nhóm trao đổi. 
 16 + Giải pháp khắc phục 
 ô nhiễm môi trường tại 
 trường học em đang 
 học
 -Chia sẻ đường link Padlet lên Zalo nhóm cho học sinh và yêu cầu hạn thời 
gian nộp bài.
 Bài 2: Giao về nhà ( Tiết tự học do giảm tải covid khuyến khích học sinh ở 
nhà)
 Hình 1: Hình ảnh bài giảng và tư liệu giáo viên đưa lên Padlet
 Bước 2: Hoạt động của học sinh
 -Truy cập Padlet bằng đường link của giáo viên đã gửi để tự học từ những 
tư liệu có trên Padlet.
 -Hoàn thành nhiệm vụ học tập của giáo viên giao cho: hoàn thành trực tiếp 
trên Padlet hoặc viết trên phiếu học tập/vở.
 -Đưa sản phẩm lên Padlet đúng giờ qui định.
 Bước 3: Kiểm tra kết quả tự học của học sinh trên Padldet 
 18

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_day_hoc_phan_noi_va_n.docx
  • docxPhục lục.docx
  • docxMục lục.docx
  • docxĐơn công nhận.docx
  • docxBiên bản xét duyệt.docx
  • docxBìa.docx