Sáng kiến kinh nghiệm Một số cải tiến giúp học sinh Lớp 4 viết văn miêu tả loài vật

Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt của con người. Trong 9 môn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là môn học giữ vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Không một quốc gia nào không chăm lo đến việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu học. Đó là môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại chiếm một vị trí khá quan trọng vì nó là sự “tích hợp” 4 kỹ năng của học sinh.

Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn thấy, đã sống, đã trải qua… chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm văn ở bậc tiểu học.

docx 41 trang Thanh Ngân 26/06/2025 200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số cải tiến giúp học sinh Lớp 4 viết văn miêu tả loài vật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số cải tiến giúp học sinh Lớp 4 viết văn miêu tả loài vật

Sáng kiến kinh nghiệm Một số cải tiến giúp học sinh Lớp 4 viết văn miêu tả loài vật
 2
 ĐỀ TÀI:
 MỘT SỐ CẢI TIẾN GIÚP HỌC SINH LỚP 4
 VIẾT VĂN MIÊU TẢ LOÀI VẬT
 I- ĐẶT VẤN ĐỀ
 1. Lí do chọn đề tài: 
 1.1Cơ sở lí luận
 Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình 
thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học 
ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt 
động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt 
của con người. Trong 9 môn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là môn học giữ 
vị trí quan trọng, bởi nó là công cụ để giao tiếp và tư duy. Không một quốc gia 
nào không chăm lo đến việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu học. Đó là 
môn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói – 
đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại chiếm một vị trí 
khá quan trọng vì nó là sự “tích hợp” 4 kỹ năng của học sinh.
 Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn 
thấy, đã sống, đã trải qua chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu 
chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết 
thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn 
miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn 
miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm văn ở 
bậc tiểu học.
 1.2. Cơ sở thực tiễn
 Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 4, văn miêu tả chiếm 30/62 
tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả 
con vật. Như vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc 4
 - Nâng cao cho học sinh khá giỏi biết quan sát và tả các con vật (một đôi, 
bầy đàn cùng loại, khác loại) trong văn miêu tả.
 - Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
 2.2.Giúp giáo viên:
 - Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận 
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
 - Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc kết và rút kinh nghiệm trong giảng dạy 
Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
 - Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
 - Giúp các giáo viên trong tổ vận dụng có hiệu quả nhất trong việc giảng 
dạy văn miêu tả.
 2.2.1.Thành công và hạn chế:
  Thành công: Trong suốt thời gian vận dụng sáng kiến trên vào việc giảng 
dạy tôi đã thu được những thành công đáng kể. Sự tiến bộ của các em qua mỗi 
bài tả con vật, qua các đợt kiểm tra định kì, qua bài kiểm tra sau tác động cũng 
cho tôi thấy được mức độ thành công của bản thân khi áp dụng đề tài nghiên cứu 
này.
 Chúng ta ai cũng biết khi một học sinh có năng khiếu hoặc có niềm đam 
mê về môn tự nhiên (mà ở cấp Tiểu học cụ thể là môn Toán) thì niềm đam mê và 
khả năng của các em dường như không còn là đáng kể cho các môn xã hội (điển 
hình là môn Tiếng Việt – và trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại 
là nỗi lo, là áp lực nhiều nhất đối với các em) cũng bởi những lí do đã đề cập ở 
trên. Tuy nhiên cũng có những con số không nhiều các em có khả năng và có 
niềm đam mê ở cả hai lĩnh vực đó. Mặt khác, trong thời buổi của công nghệ 
thông tin này, việc các em say mê các môn tự nhiên cũng là một lẽ đương nhiên, 
dễ hiểu. Vì vậy, với đối tượng học sinh của tôi, khi làm cho các em có một chút 
thay đổi như: không ngại học, có những cố gắng và tiến bộ dù nhỏ, tôi cũng cảm 
thấy hài lòng và xem đó đã là một thành công nhỏ của mình.
  Hạn chế: Tuy vậy, hạn chế còn gặp phải đó là do vốn sống, vốn nhận 6
xử trong mọi trường hợp.
 - Phát triển hoạt động nhận thức của học sinh, giúp các em biết liên tưởng, 
tích hợp, tập các em có thói quen tham khảo tài liệu, đọc sách báo và phát triển 
nhu cầu tự học.
 - Giúp học sinh tích lũy kiến thức Tiếng Việt trong mỗi giờ học trở nên 
nhiều hơn, sâu sắc hơn, nâng cao cả về mặt kiến thức lẫn các kĩ năng ngôn ngữ.
 3.Đối tượng nghiên cứu: 
 Đối tượng tôi nghiên cứu là học sinh lớp 4B mình phụ trách và học sinh 
trong khối 4 của trường mình dạy.
 4.Đối tượng khảo sát thực nghiệm:
 Đối tượng tôi khảo sát, thực nghiệm là chính học sinh lớp mình đang 
giảng dạy và học sinh các lớp cùng khối lớp 4.
 5.Phương pháp nghiên cứu:
 * Để thực hiện tốt đề tài cần tiến hành các phương pháp nghiên cứu sau: 
 - Phương pháp đọc sách và tham khảo. 
 - Phương pháp phân tích chương trình môn Tiếng Việt. 
 - Phương pháp điều tra. 
 - Phương pháp vận dụng. 
 - Phương pháp trao đổi. 
 - Phương pháp thống kê.
 6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu.
 - Dạng văn miêu tả loài vật ở lớp 4.
 - Đề tài này được nghiên cứu dựa trên thực trạng dạy viết văn miêu tả loài 
vật của học sinh lớp 4 Trường Tiểu học số 1Phước Quang từ năm học 2021 – 
2022 đến năm 2022-2023.
 - Đồng thời phối hợp, học hỏi đồng nghiệp trong trường, qua giao lưu, tiếp 
xúc.
 II.NỘI DUNG
 1.Cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên 8
các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp 
trong cuộc sống. Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, trong đó có phân 
môn Tập làm văn sẽ góp phần giúp giáo viên rèn luyện các thao tác tư duy cho 
học sinh.
 Những năm gần đây, nhờ áp dụng những phương pháp mới trong dạy học 
nên số lượng học sinh Tiểu học đủ điểm môn Tiếng Việt cuối năm đạt 100%, 
đây là kết quả đáng mừng. Tuy nhiên, số lượng học sinh đạt điểm cao và tuyệt 
đối còn hạn chế, mà nhất là ở phân môn Tập làm văn. Do học sinh chưa thực 
hiện tốt các nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn yêu cầu. 
 2.2. Khó khăn của vấn đề trên là.
  Về phía học sinh: Chương trình đòi hỏi các em biết kết hợp cả 4 kĩ năng 
để học tốt môn Tập làm văn. Học sinh cần làm chủ quá trình hình thành kĩ năng 
sản sinh văn bản trên cả hai hình thức văn bản nói – văn bản viết. Trong thực 
tế, tôi thấy rằng học sinh có nhiều hạn chế như:
 - Học sinh chưa biết cách quan sát đối tượng một cách tinh tế, chưa biết 
chọn lọc đặc điểm nổi bật, vẻ đẹp riêng của từng con vật.
 - Còn lúng túng khi lập dàn bài chi tiết một bài văn. Học sinh thường tả 
ngoại hình, chưa tả tính nết, lối sống, sự hoạt động của con vật. Nên con vật 
được miêu tả chỉ là con vật “chết”, một con vật vẽ trong tranh mà thôi.
 - Cách vận dụng từ ngữ trong văn còn hạn chế (còn lặp từ, chưa biết dùng 
đại từ thay thế), chưa biết dùng nghệ thuật so sánh hay nhân hóa để làm con 
vật thêm sống động.
 - Học sinh thường quan sát một đối tượng và miêu tả đối tượng đó, chưa 
nâng cao hơn trong quá trình quan sát và viết. 
 Ví dụ : Học sinh có thể làm bài văn tả một con gà, nhưng khó khăn trong 
việc “tả một đàn gà đang kiếm mồi trong vườn” hay “ tả mẹ con chú mèo đang 
tắm nắng ”.
  Về phía giáo viên:
 Việc dạy cho học sinh đạt được 4 kĩ năng nghe – nói – đọc – viết là một 10
xúc, sự liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối 
tượng miêu tả, đôi khi còn mang tính bịa đặt. 
  Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so 
sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện. 
 Ví dụ : Con gà to như con lợn con.
  Hình thức câu lặp lại nhiều lần: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài. 
Lông nó thì đen
 Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong bài.
  Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt. 
 Ví dụ : Cún con mới dễ thương làm sao. (!)
 3.1.3. Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Lỗi chính 
tả, lỗi dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi chủ đề. Cụ thể như sau:
 3.1.3.1.Lỗi chính tả: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm s/x, d/r/gi. Ở 
đây, tôi sẽ không đề cập sâu vấn đề này.
 3.1.3.2.Lỗi dấu câu: 
  Không dùng dấu câu: thường xảy ra nhiều với học sinh yếu kém. Các em 
không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc trong 
một bài văn.
  Sử dụng dấu câu sai. 
 Ví dụ : Con chó lông xám. Xù xì.
 3.1.3.3.Lỗi diễn đạt: 
  Lỗi dùng từ không phù hợp. 
 Ví dụ : Con mèo có bộ lông trắng tinh.
  Câu không đủ thành phần. 
 Ví dụ : Ăn chậm và thích ăn cơm trộn cá.
  Câu thừa thành phần (lặp lại thành phần một cách không cần thiết).
 Ví dụ : Em rất yêu quý con mèo nhà em.
  Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.
 Ví dụ : Con gà trống dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người. 12
văn.
 - Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế: cảm xúc, tình cảm 
không tự nhiên, có sự gượng ép.
 - Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy 
đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
 - Các em chưa thực sự cảm thấy yêu môn học.
 3.3.Những giải pháp giúp học sinh viết văn miêu tả con vật
 * Mục tiêu của giải pháp
 - Giúp giáo viên Tiểu học dạy học sinh viết được bài văn miêu tả con vật 
theo yêu cầu, khắc phục được các lỗi về dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi dùng từ, . Từ 
đó rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng bài văn miêu tả nói chung, văn tả con vật 
nói riêng. Qua đó giúp các em ham thích học môn Tập làm văn và sẽ đạt được 
kết quả cao, góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em ở phân môn Tập 
làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung. Giúp giáo viên thoải mái về 
tâm lí trong giảng dạy. 
 - Khi vận dụng các giải pháp của đề tài sẽ giúp giáo viên chủ động được 
thời gian của tiết học vì học sinh sẽ không còn lúng khi dùng từ đặt câu để viết 
văn.
 - Góp phần phát triển tư duy, nâng cao vốn từ Tiếng Việt cho các học sinh. 
 - Góp phần bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt và thói quen giữ 
gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con 
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 * Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
 ► Tìm hiểu chung
 - Khác với tả đồ vật, cây cối, tả loài vật có những nét riêng biệt sau:
 + Vận chuyển, di chuyển: chim bay, cá lội, thú chạy,
 + Thói quen sinh hoạt: chó đi khoan thai, chạy tứ tung,Mèo thì đi nhẹ 
nhàng,
 + Tính nết: trung thành, khôn lanh, 14
thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, 
viết về nội dung đề bài đã yêu cầu. 
 Ví dụ:
 Đề 1: Hãy tả một con vật mà em yêu thích.
 Đề 2: Hãy tả một con vật do chính tay em chăm sóc, 
 * Giải pháp 3: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
 Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng 
ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể 
hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.
 Nhà văn Phạm Hổ: Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta biết, người đọc 
như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, dòng 
sôngNgười đọc còn có thể nghe được tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, 
thậm chí còn ngửi thấy mùi hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm 
mốc nhưng đó chỉ mới là miêu tả bên ngoài còn sự miêu tả bên trong nữa là 
tâm trạng vui, buồn, yêu ghét của con người, con vật và cả cây cỏ.
 * Giải pháp 4: Định hướng (tìm hiểu bài)
 - Giúp học sinh phân tích đề, kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu giới hạn của 
đề.
 - Xác định đối tượng cần miêu tả.
 Ví dụ
 1/ Tả một con vật mà em thích nhất.
 2/ Nhà em có một đàn gà, trong đó có một con gà trống rất hiếu chiến. Em 
hãy tả con gà trống đó.
 3/ Nhà em có nuôi một đàn gà. Em hãy tả đàn gà lúc đang kiếm mồi.
 Việc tìm hiểu đề bài có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là bước định hướng 
cho cả quá trình làm bài. Định hướng đúng hay sai sẽ quyết định làm bài sai hay 
đúng.
 Muốn tìm hiểu đề bài phải đọc đề bài nhiều lần, tìm hiểu ý của từng từ, 
từng câu, chọn ra các từ ngữ quan trọng nhất. 16
 - Thời gian - Mới sáng tinh mơ, trưa,chiều - Vừa hửng sáng, trước lúc vào 
 chuồng
 - Giác quan: - Chú gà trống cất tiếng gáy ò - Những tiếng tục tục liên hồi, 
 + Tai ó o những tiếng kêu chíp chíp đáng 
 yêu.
 + Mắt - Tôi đưa mắt nhìn và thấy chú - Vào những buổi sáng tinh mơ, tôi 
 từ trên cành cây cao nhảy phốc mang thóc vải cho gà ăn, trông 
 xuống đất và đi kiếm mồi. chúng thật đáng yêu làm sao!
 -Không gian - Từ xa đi lại chú lững thững với - Gà mẹ đưa mắt nhìn quanh và 
 (xa,gần) dáng vẻ tự đắc làm cho những miệng luôn “tục tục” kêu gọi đàn 
 chú gà hàng xóm phải kính nể. con. Từ xa, đàn con như những 
 Khi đến gần, trông chú mới oai hòn tơ nhỏ chạy như lăn tròn đến 
 vệ làm sao! bên mẹ.
 - Để chuẩn bị cho tiết học hôm sau, tôi giao việc cho các em là về nhà quan 
sát con gà trống, con vật mà em sẽ tả,  rồi ghi lại vào vở những gì mình quan 
sát được.
 - Để cho các em biết cách quan sát, (bằng hình minh họa đã chuẩn bị) tôi 
hướng dẫn các em đi từ cái bao quát (cái chung) đến cái chi tiết (cái cụ thể, bộ 
phận) của đối tượng cần miêu tả. Tả một con vật, tôi gợi ý cho các em phải có sự 
sắp xếp ý theo một trình tự. Tả con vật thì ta tả từ đầu (mắt, mũi, tai) rồi đến 
mình, đến chân và đuôi. Cũng có thể những em khá, giỏi sẽ thay đổi trình tự đó 
một chút, có nghĩa là đặc điểm nào nổi bật, là điểm nhấn ở con vật.
 - Khi quan sát đối tượng cần miêu tả, yêu cầu học sinh biết cách quan sát 
theo trình tự và chọn lọc những nét nổi bật riêng biệt, nét tiêu biểu, đặc sắc 
của con vật.
 Ví dụ: Khi tả chú gà trống, học sinh có thể quan sát và tả theo trình tự trên - 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_cai_tien_giup_hoc_sinh_lop_4_vi.docx