Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học chương Động lực học – Vật lí 10 Kết nối tri thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Vật Lí

Hiện nay, công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đang là một trong những ưu tiên hàng đầu của nền giáo dục và đào tạo nước ta. Căn cứ chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) là môn học thuộc nhóm môn Khoa học tự nhiên, được lựa chọn theo nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Môn Vật lí giúp học sinh tiếp tục phát triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường bản thân.

“Động lực học – Vật lí 10 KNTT” là một chương đóng vai trò rất quan trọng trong phần cơ học, đặc biệt là các định luật Newton, đây là nền móng của cơ học cổ điển. Nhờ có các định luật Newton mà các bài toán về cơ học cổ điển được giải quyết một cách dễ dàng và phù hợp với thực tế. Mặt khác, khi nghiên cứu các kiến thức về động lực học giúp học sinh hiểu rõ hơn bản chất của chuyển động, các lực cơ bản trong tự nhiên như lực ma sát, lực cản, lực nâng, lực quán tính, trọng lực ... giúp học sinh hiểu và giải thích được về các hiện tượng diễn ra thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày từ đó ứng dụng nó để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Có thể nói, nếu biết tạo được hứng thú học tập cho học sinh trong chương học này sẽ là một bước đệm to lớn giúp các em có thêm cảm hứng và đam mê với môn Vật lí từ đó nâng cao chất lượng học tập của bộ môn trong các kiến thức sau.

Từ thực tế việc dạy và học Vật lý THPT tại Trường THPT Hoàng Mai 2, tôi nhận thấy một bộ phận học sinh thờ ơ với môn Vật lí hoặc là các em sợ phải học môn Vật lí , cảm thấy nặng nề với các công thức định lí, định luật Vật lí khó hiểu. Vấn đề này là ở phương pháp dạy của giáo viên, chỉ dạy kiến thức một cách máy móc, không có ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống, không có nhiều hình thức học tập đa dạng, làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán, nặng nề và khô khan trong các tiết học dẫn đến kêt quả học tập không cao. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới cả về tư duy và phương pháp dạy. Để làm được điều này, điểm cốt lõi là người giáo viên phải linh hoạt trong tổ chức các hoạt động dạy học, sử dụng phối hợp các phương pháp và kĩ thuật dạy học nhằm thu hút, gây hứng thú và phát triển tư duy, bồi dưỡng nhân cách cho HS.

Từ những lý do trên tôi đã mạnh dạn đề xuất đề tài: “ Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học chương Động lực học – Vật lí 10 KNTT nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Vật Lí”.

docx 79 trang Thanh Ngân 08/11/2024 370
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học chương Động lực học – Vật lí 10 Kết nối tri thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Vật Lí", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học chương Động lực học – Vật lí 10 Kết nối tri thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Vật Lí

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh khi học chương Động lực học – Vật lí 10 Kết nối tri thức nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Vật Lí
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
 TRƯỜNG THPT HOÀNG MAI 2
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 ĐỀ TÀI
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC 
SINH KHI HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG LỰC HỌC” VẬT LÍ 10 NHẰM 
 NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC MÔN VẬT LÍ
 Lĩnh vực: Vật lí 
 Người thực hiện 
 Giáo viên: Trần Thị Thanh Hải 
 Số điện thoại: 0395536275 
 E-Mail:haittt.tc3@nghean.edu.vn 
 Năm học 2022-2023 PHẦN A: MỞ ĐẦU 
 I. Lý do chọn đề tài 
 Hiện nay, công cuộc đổi mới phương pháp dạy học đang là một trong những ưu tiên hàng 
đầu của nền giáo dục và đào tạo nước ta. Căn cứ chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí 
(Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng 
Bộ Giáo dục và Đào tạo) là môn học thuộc nhóm môn Khoa học tự nhiên, được lựa chọn theo 
nguyện vọng và định hướng nghề nghiệp của học sinh. Môn Vật lí giúp học sinh tiếp tục phát 
triển các phẩm chất, năng lực đã được hình thành trong giai đoạn giáo dục cơ bản, tạo điều kiện 
để học sinh bước đầu nhận biết đúng năng lực, sở trường bản thân. 
 “Động lực học – Vật lí 10 KNTT” là một chương đóng vai trò rất quan trọng trong phần 
cơ học, đặc biệt là các định luật Newton, đây là nền móng của cơ học cổ điển. Nhờ có các định 
luật Newton mà các bài toán về cơ học cổ điển được giải quyết một cách dễ dàng và phù hợp với 
thực tế. Mặt khác, khi nghiên cứu các kiến thức về động lực học giúp học sinh hiểu rõ hơn bản 
chất của chuyển động, các lực cơ bản trong tự nhiên như lực ma sát, lực cản, lực nâng, lực quán 
tính, trọng lực ... giúp học sinh hiểu và giải thích được về các hiện tượng diễn ra thường xuyên 
trong cuộc sống hằng ngày từ đó ứng dụng nó để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Có 
thể nói, nếu biết tạo được hứng thú học tập cho học sinh trong chương học này sẽ là một bước 
đệm to lớn giúp các em có thêm cảm hứng và đam mê với môn Vật lí từ đó nâng cao chất lượng 
học tập của bộ môn trong các kiến thức sau. 
 Từ thực tế việc dạy và học Vật lý THPT tại Trường THPT Hoàng Mai 2, tôi nhận thấy 
 một bộ phận học sinh thờ ơ với môn Vật lí hoặc là các em sợ phải học môn Vật lí , cảm thấy 
 nặng nề với các công thức định lí, định luật Vật lí khó hiểu. Vấn đề này là ở phương pháp dạy 
 của giáo viên, chỉ dạy kiến thức một cách máy móc, không có ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống, 
 không có nhiều hình thức học tập đa dạng, làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán, nặng nề và 
 khô khan trong các tiết học dẫn đến kêt quả học tập không cao. Đổi mới phương pháp dạy học 
 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới cả về tư duy và 
 phương pháp dạy. Để làm được điều này, điểm cốt lõi là người giáo viên phải linh hoạt trong tổ + Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin khi vận dụng phương pháp chia cột cho lớp thực 
 nghiệm 10A2 và lớp đối chứng vận dụng phương pháp truyền thống 10A10 tại trường THPT 
 Hoàng Mai 2. 
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: tổng hợp, so sánh và đưa ra kết luận trên cơ sở các thông 
 tin và số liệu đã có. 
 IV. Những đóng góp của sáng kiến. 
 - Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến. 
 + Trong sáng kiến này tôi vận dụng các hình thức dạy học tích cực vào mỗi tiết dạy. Đồng thời 
 qua đó giúp tiết học sinh động hơn, dễ hiểu, dễ tiếp thu kiến thức, bảo đảm sự liên tục và bền 
 vững cho việc hình thành kỹ năng của học sinh, giúp các em có hứng thú hơn với môn học. 
 + Phát triển được các năng lực của học sinh: năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng 
 lực thực nghiệm, năng lực sáng tạo... 
 - Lợi ích thiết thực của sáng kiến: 
 + Tạo ra giờ học lý thú bổ ích, gần gũi với học sinh hơn, kích thích lòng ham thích học tập, phát 
 triển tư duy của học sinh. Học sinh hình thành và hoàn thiện hệ thống kĩ năng học. 
 + Đạt các mục tiêu của giáo dục đã được định hướng: Học để biết, học để làm, học để cùng chung 
 sống và học để làm người. 
 PHẦN B: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
 I. Cơ sở lý luận: 
 1. Hứng thú là gì? 
 Ngày nay, khi tri thức đã thành yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế tri thức thì các nước trên 
 thế giới đều ý thức được rằng giáo dục là đòn bẩy quan trọng để đổi mới mô hình tăng trưởng và 
 phát triển xã hội bền vững. Nhận thức rõ ràng tầm quan trọng đó, trong những năm gần đây Đảng 
 và Nhà nước ta nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt đến đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo 
 phát triển nguồn nhân lực, phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng lòng say 
 mê học tập và ý chí vươn lên nhằm giúp người học tiếp thu được lượng tri thức tốt nhất. Vậy bồi 
 dưỡng lòng say mê, hứng thú học tập như thế nào cho hiệu quả? Để trả lời được câu hỏi đó, đầu khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú được hình thành, 
 duy trì và phát triển nhờ môi trường giáo dục với vai trò dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của GV. 
 GV là người có vai trò quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng thú học tập 
 cho HS. 
 2. Dạy học theo hướng tiếp cận thực tiễn 
 Dạy học theo hướng tiếp cận với thực tiễn là việc sử dụng những bối cảnh, tư liệu thực 
tiễn để đưa vào các bài giảng hoặc lấy làm đề tài cho học sinh vận dụng các kiến thức để giải 
quyết các vấn đề đó. 
 Từ các lớp học ngoài trời, đến hình thành một xu hướng giáo dục có tính thực tiễn cao 
 bằng cách áp dụng những phương pháp dạy học và giáo dục hiện đại như: 
 + Kĩ thuật trò chơi: Tạo những trò chơi sôi động với những câu hỏi tạo trò chơi gắn với 
 thực tiễn để nêu vấn đề cần giải quyết hoặc những nội dung ôn tập. 
 + Trải nghiệm các thí nghiệm Vật lí 
 + Tăng cường sử dụng các bài tập có tính thực tế 
 + Đổi mới nội dung, hình thức kiểm tra, đánh giá học sinh: với những câu hỏi gắn với thực 
 tiễn. 
 3. Kĩ thuật sử dụng trò chơi trong các tiết dạy học 
 Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm 
 những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. 
 Quy trình thực hiện: 
 Bước 1: GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho HS Bước 2: Chơi thử (nếu cần thiết) 
 Bước 3: HS tiến hành chơi 
 Bước 4: Đánh giá sau trò chơi 
 Bước 5: Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi 
 Một số lưu ý: 
 + Trò chơi phải dễ tổ chức và thực hiện, phải phù hợp với chủ đề bài học, với đặc điểm và 
 trình độ HS, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của lớp học, đồng thời phải theo danh sách, chia theo đặc điểm chung, chia theo năng lực, chia theo kinh nghiệm, chia theo 
 giới tính, chia theo cùng sở thích, chia qua tình huống, chia qua trò chơi 
 Khi chia nhóm cần chú ý tới số lượng và trình độ, năng lực của người học. Không chia nhóm 
 này quá đông, nhóm kia quá ít hoặc nhóm này tập trung nhiều người học giỏi, năng động, nhóm 
 kia phần đông lại kém hơn, rụt rè, im lặng... Nếu lớp không quá nhiều người học, vấn đề thảo 
 luận có những ý kiến trái ngược nhau tạo sự tranh luận, nên chia 2 nhóm. 
 Mỗi nhóm cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ để phân công trách nhiệm cho từng thành viên 
 bao gồm: trưởng nhóm, thư kí, và các thành viên. Nhóm trưởng có thể chịu trách nhiệm là người 
 phát biểu ý kiến, quan điểm của nhóm về vấn đề thảo luận, một thư ký chịu trách nhiệm ghi chép, 
 tổng kết các ý kiến thảo luận cũng cần có khả năng lĩnh hội, bao quát và lựa chọn những vấn đề 
 cốt yếu trong thảo luận.
 Việc bố trí chỗ ngồi cũng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc thảo luận. Nên bố trí để các thành viên 
 trong nhóm ngồi quay mặt vào nhau, vị trí ngồi đủ gần để có thể trao đổi, chia sẻ với nhau một 
 cách thuận lợi. Nên có khoảng cách giữa các nhóm để sự trao đổi của các nhóm không bị ảnh 
 hưởng tới nhau. 
 4.3. Giao nhiệm vụ và giới hạn thời gian thảo luận 
 Trước khi tiến hành thảo luận người dạy phải giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho từng nhóm 
 và phải có hướng dẫn cụ thể và định hướng cách thức thảo luận và trình bày. Thời gian thảo luận 
 cần được giới hạn và phải tương ứng với nội dung, yêu cầu của vấn đề đặt ra. Thời gian giới hạn 
 phải đủ để người học suy nghĩ, trao đổi. Nếu thời gian quá ít, thảo luận nhóm sẽ sơ sài, không đi 
 vào cốt lõi vấn đề, có thể chỉ mang tính chất đối phó. Nếu thời gian quá dài sẽ tạo sự lơ đãng, 
 phân tán và làm loãng không khí thảo luận. 
 4.4. Giám sát hoạt động thảo luận của từng nhóm 
 Thời gian các nhóm thảo luận không phải là thời gian nghỉ ngơi hoặc làm việc riêng của 
 người dạy. Khi người học tiến hành thảo luận, người dạy chuyển từ vị trí người hướng dẫn sang 
 vị trí người giám sát. 
Người dạy phải di chuyển vòng quanh các nhóm, nắm bắt tình hình hoạt động của mỗi nhóm, nhau một cách “thù địch”. 
Người dạy phải sắp xếp thời gian để tất cả các nhóm được trình bày kết quả thảo luận của mình 
 một cách công bằng. Nếu chỉ ưu tiên một hoặc hai nhóm trình bày, có thể hình thành ở người 
 học các nhóm còn lại thái độ thiếu hứng thú và thiếu động lực trong những lần thảo luận sau. 
 Mặt khác, nếu không tạo cơ hội cho tất cả các nhóm được trình bày, người dạy không nhận ra 
 được những ưu và khuyết điểm của tất cả các nhóm, do vậy không đánh giá một cách toàn diện 
 về nhận thức và thái độ của người học đối với những vấn đề nêu ra trong thảo luận nói riêng và 
 bài học nói chung. 
 4.6. Tổng kết đánh giá 
 Tổng kết đánh giá là khâu cuối cùng nhưng khá quan trọng của hoạt động thảo luận. Người 
 dạy phải là người nắm vững tri thức lý luận và thực tế, công tâm, linh hoạt thì việc đánh giá 
 mới đảm bảo khách quan, công bằng, chính xác. Người dạy là người chịu trách nhiệm đánh giá 
 nhưng trước khi kết luận, có thể yêu cầu các người học tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm, 
 và các nhóm đánh giá kết quả làm việc của nhau. Đây là một kênh để đảm bảo cho người học 
 phát huy khả 
 năng đánh giá và tự đánh giá. Mặt khác, hình thức này cũng giúp người dạy đưa ra kết quả cuối 
 cùng phù hợp hơn. 
Người dạy tổng kết lại các vấn đề đã thảo luận, đánh giá những ý kiến và giải quyết mọi câu hỏi 
 của người học xung quanh vấn đề đó. Qua việc kết luận, chốt lại vấn đề sẽ giúp người học nắm 
 bắt, ghi nhớ được những nội dung cơ bản, cần thiết. Việc đánh giá chủ yếu là nội dung đạt được 
 nhưng bên cạnh đó cần đánh giá ý thức, thái độ, năng lực làm việc của người học. Người dạy 
 nên nhận xét cụ thể và động viên khích lệ tinh thần học tập của người học. 
 II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
 Trong những năm giảng dạy bộ môn Vật lí, tôi nhận thấy, đại đa số học sinh của Trường 
 THPT Hoàng Mai 2 và một số trường khác trên địa bàn nói chung đều có tâm lí vẫn ngại học các 
 môn tự nhiên như Toán, Vật lí, Hóa học...bởi đây đều là các môn với nhiều kiến thức trừu tượng, 
 nhiều công thức và phép biến đổi toán học và đặc biệt cho rằng môn Vật lí là một môn khó học, Rất khó 
 6% 
 Khó 
 52% Bình thường
 Biểu đồ khảo sát về cảm nhận của học sinh với 
 môn Vật lí 
 Cũng qua khảo sát, số liệu thống kê được ta thấy 
 có đến 52% số học sinh được khảo sát cho rằng 
 môn Vật lí là môn học khó, 6% số học sinh được 
khảo sát cho là môn Vật Lí rất khó không có khả năng tiếp thu, điều này vô hình tạo nên một rào 
cản về 
8 
mặt tư tưởng của các em với niềm yêu thích môn Vật lí, từ đó bước đầu làm cho việc tiếp nhận kiến 
thức môn học đối với các em trở nên khó khăn hơn. 
2. Khảo sát về tình hình đổi mới dạy học của giáo viên trong quá trình dạy học môn Vật Lí. 
 Qua khảo sát từ cả giáo viên và học sinh thì việc dạy học trong môn Vật Lí đã có nhiều đổi 
mới tuy nhiên sự đổi mới đó là không thường xuyên và liên tục, giáo viên đa số chỉ sử dụng các 
phương pháp dạy học tích cực khi có tiết dạy thao giảng, đánh giá, dự giờ hoặc khi tham gia các kì 
thi, chủ yếu các tiết dạy thông thường trên lớp vẫn phần nhiều sử dụng phương pháp: thuyết trình, 
 hỏi – đáp,..... 
 22% 
 rất thường xuyên 
 thường xuyên 
 12% 
 24% 
 42% 
 thỉnh thoảng rất ít
 Biểu đồ khảo sát mức độ sử dụng các 
hình thức dạy học tích cực của giáo viên Nhìn vào biểu đồ khảo sát ta nhận thấy số lượng giáo viên 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.docx