Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông (phần Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945)

Vấn đề tự học, tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, sinh viên; Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, sinh viên, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Ngày 04/11/2013 tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Nghị quyết chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội";

Mục tiêu Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 được xác định sẽ giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. Trong đó, năng lực tự học là một trong ba năng lực chung cốt lõi của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018.

Hiện nay, học sinh trung học phổ thông còn nhiều vướng mắc, khó khăn khi học tập, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự học, chưa xây dựng và rèn luyện kĩ năng tự học hợp lí. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân nên giáo viên đang chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn diện cho học sinh trong đó có kĩ năng tự học. Vì vậy, mỗi nhà trường cần đưa phương pháp tự học vào mục tiêu dạy học. Điều đó không chỉ giúp bản thân học sinh nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân học sinh tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay.

Trong những năm gần đây, chất lượng thi tốt nghiệp của bộ môn Lịch sử thường thấp hơn các môn học khác. Các em học sử một cách thụ động, máy móc và mang tính đối phó để tránh liệt vượt qua kì thi. Để nâng cao chất lượng bộ môn, bồi dưỡng nhu cầu tự học, tự tìm hiểu, tự khám phá của học sinh là niềm trăn trở của rất nhiều giáo viên dạy lịch sử. Vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Qua việc nghiên cứu ma trận đề thi của Bộ trong những năm gần đây, tôi nhận thấy phần lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 là một trong những phần kiến thức quan trọng thường xuất hiện trong đề thi với bốn mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao.

Xuất phát từ những khó khăn hiện tại của đơn vị công tác trong việc nâng cao chất lượng môn Lịch sử nói chung và chất lượng thi tốt nghiệp THPT của môn Lịch sử nói riêng, đồng thời góp phần hình thành năng lực tự học cho học sinh phù hợp với thời kì quá độ tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông (phần Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945)” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình.

docx 99 trang Thanh Ngân 07/12/2024 330
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông (phần Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông (phần Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển năng lực tự học của học sinh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả ôn thi tốt nghiệp trung học phổ thông (phần Việt Nam từ năm 1919 đến năm 1945)
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
 TRƯỜNG THPT YÊN THÀNH 2
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: 
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN 
 NĂNG LỰC TỰ HỌC CỦA HỌC SINH 
 NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÔN THI 
 TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 
 (PHẦN VIỆT NAM TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945)
 LĨNH VỰC: LỊCH SỬ
 Tên tác giả: HOÀNG DANH HÙNG
 Năm thực hiện: 2022 - 2023
 SĐT liên hệ: 0384461812
 Yên Thành, tháng 4 năm 2023 3.2.5.2. Tổng hợp, xâu chuỗi các sự kiện lịch sử theo nhóm kiến 
 thức..........................................................................................................20
 3.2.5.3. Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu...................................22
 3.2.5.4. Sử dụng sơ đồ tư duy..................................................................26
 3.2.5.5. Sử dụng từ khóa kết hợp “ôn tập nhanh” ...................................28
 3.2.5.6. Học tự luận để thi trắc nghiệm ...................................................33
 3.2.5.7. Hướng dẫn học sinh trả lời các dạng câu hỏi thường gặp 
 trong đề thi hàng năm và kỹ thuật phân tích các câu hỏi ........................37
 3.2.5.8. Xây dựng nội dung ôn tập cho học sinh theo các mức độ 
 nhận thức .................................................................................................42
 3.2.5.9. Ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển năng lực tự 
 học cho học sinh.....................................................................................42
 4. Khảo sát về tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp............................43
 4.1. Mục đích khảo sát.....................................................................................43
 4.2. Nội dung và phương pháp khảo sát..........................................................43
 4.3. Đối tượng khảo sát ...................................................................................43
 4.4. Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đã 
 đề xuất .............................................................................................................44
 4.4.1. Sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất..........................................44
 4.4.2. Tính khả thi của các giải pháp đề xuất ..............................................45
 5. Những kết quả đạt được sau khi áp dụng các giải pháp ..................................45
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................47
 3.1. Những bài học kinh nghiệm .........................................................................47
 3.2. Kết luận chung..............................................................................................47
 3.3. Ý nghĩa của đề tài.........................................................................................47
 3.3.1. Tính mới ................................................................................................47
 3.3.2. Tính khoa học........................................................................................47
 3.3.3. Tính hiệu quả.........................................................................................47
 3.4. Kiến nghị ......................................................................................................48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
 1. Lý do chọn đề tài
 Vấn đề tự học, tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm 
quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: 
“Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo 
của học sinh, sinh viên; Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, 
sinh viên, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng 
khắp trong toàn dân”. Ngày 04/11/2013 tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành 
Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và 
toàn diện giáo dục. Nghị quyết chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao 
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ 
chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người 
học. Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp 
với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội"; 
 Mục tiêu Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018 được xác định sẽ 
giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người 
lao động, ý thức và nhân cách công dân; khả năng tự học và ý thức học tập suốt 
đời; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và 
hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống 
lao động; khả năng thích ứng với những đổi thay trong bối cảnh toàn cầu hóa và 
cách mạng công nghiệp mới. Trong đó, năng lực tự học là một trong ba năng lực 
chung cốt lõi của Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2018.
 Hiện nay, học sinh trung học phổ thông còn nhiều vướng mắc, khó khăn khi 
học tập, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự học, chưa xây dựng và rèn 
luyện kĩ năng tự học hợp lí. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân nên giáo viên đang 
chú trọng đến việc truyền thụ kiến thức mà ít quan tâm đến rèn luyện kĩ năng toàn 
diện cho học sinh trong đó có kĩ năng tự học. Vì vậy, mỗi nhà trường cần đưa 
phương pháp tự học vào mục tiêu dạy học. Điều đó không chỉ giúp bản thân học 
sinh nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền vững; chủ động bồi dưỡng 
phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý 
chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có 
chính bản thân học sinh tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể 
cung cấp hay làm thay. 
 Trong những năm gần đây, chất lượng thi tốt nghiệp của bộ môn Lịch sử 
thường thấp hơn các môn học khác. Các em học sử một cách thụ động, máy móc 
và mang tính đối phó để tránh liệt vượt qua kì thi. Để nâng cao chất lượng bộ môn, 
bồi dưỡng nhu cầu tự học, tự tìm hiểu, tự khám phá của học sinh là niềm trăn trở 
của rất nhiều giáo viên dạy lịch sử. Vấn đề phát triển năng lực tự học cho học sinh 
càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
 1 học của học sinh và mức độ trả lời các câu hỏi trong ma trận phần Lịch sử Việt 
Nam 1919-1945.
 - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để 
kiểm tra giả thuyết khoa học của đề tài.
 - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Để hệ thống kiến thức tự luận 
nâng cao cho học sinh vận dụng vào làm câu hỏi trắc nghiệm mức độ khó cần phải 
sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp các bài, chương, phần học trong 
Sách giáo khoa. 
 5. Những điểm mới và đóng góp của đề tài
 - Hệ thống nội dung kiến thức phần Lịch sử Việt Nam 1919 - 1945 để các 
em chinh phục các câu hỏi trắc nghiệm ở 4 mức độ.
 - Phát triển năng lực tự học, hình thành kĩ năng tự học không chỉ đối với bộ 
môn Lịch sử mà còn đối với các môn học khác. Trên cơ sở hình thành năng lực 
chung, phát triển các năng lực chuyên biệt đối với môn Lịch sử.
 - Góp phần đổi mới phương pháp dạy học, xem đối tượng người học là trung 
tâm, thay đổi tư duy, lối học thụ động của học sinh. Bản thân giáo viên cũng không 
ngừng phải tự học, tự nghiên cứu để nâng cao chất lượng dạy và học.
 3 năng lực giải quyết vấn đề; năng lực xác định các kết luận đúng (kiến thức,cách 
thức, con đường, giải pháp, biện pháp) từ quá trình giải quyết vấn đề; năng lực vận 
dụng kiến thức vào thực tiễn; năng lực đánh giá và tự đánh giá.
 1.1.4. Vai trò của năng lực tự học
 Năng lực tự học có bốn vai trò chính sau: tự tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kĩ 
năng nhận thức, tạo ra cầu nối nhận thức trong tình huống học; tự làm chủ tri thức 
hiện diện trong chương trình học và tri thức qua các tình huống hoc; tự biến đổi 
mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lý thông tin từ môi trường 
xung quanh mình; tự học, tự nghiên cứu, tự mình tìm ra kiến thức bằng hành động 
của chính mình, cá nhân hóa việc học, đồng thời hợp tác với bạn trong cộng đồng 
lớp học dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
 1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề
 1.2.1. Những khó khăn trong việc thực hiện nội dung chương trình, sách 
giáo khoa và thời lượng ôn tập
 Đối với việc thực hiện nội dung chương trình, sách giáo khoa: Nội dung 
sách giáo khoa tập trung các dạng bài cung cấp kiến thức, ôn tập ít, thiếu thực 
hành... nên từ trước đến nay học sinh chủ yếu học tập thụ động, máy móc, mang 
tính đối phó. Sách giáo khoa dù đã giảm tải nhiều nội dung không cần thiết nhưng 
vẫn còn nặng và quá ôm đồm về kiến thức, nhiều sự kiện, khái niệm và quy luật, 
bài học học sinh cần phải nắm, nhớ, hiểu, vận dụng. 
 Bên cạnh đó, thời gian phân bổ cho môn học chưa hợp lý. Môn Lịch sử lớp 
12 chỉ được tiến hành học trong 52 tiết, trung bình 1,5 tiết/tuần với nội dung kiến 
thức cả thế giới 1945 - 2000 và lịch sử Việt Nam từ 1919 - 2000. 
 Về thời lượng ôn tập: Việc bố trí các buổi ôn thi tốt nghiệp cho môn sử trong 
cả năm học khoảng từ 10 đến 12 buổi, chủ yếu chỉ có thể giúp các em hệ thống 
kiến thức, luyện tập một số dạng câu hỏi. Chính vì thế việc phát triển năng lực tự 
học của các em trong quá trình ôn tập có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
 1.2.2. Thực trạng vấn đề tự học của học sinh trong việc ôn thi tốt nghiệp 
trung học phổ thông
 Để đánh giá thực trạng vấn đề tự học của học sinh trong việc ôn thi tốt 
nghiệp, trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát bằng phiếu điều 
tra (Phiếu điều tra - xem ở phần Phụ lục 1). Cụ thể như sau:
 - Đối tượng khảo sát: Toàn bộ học sinh khối 12 đang học tại trường. Tổng số 
học sinh khảo sát: 420/453 (chiếm 92,7%) 
 - Thời gian khảo sát: từ ngày 10/02/2023 đến ngày 13/04/2023
 - Phương pháp khảo sát: Khảo sát trực tuyến qua đường link Google Form 
(Đường link khảo sát: https://forms.gle/n8Ht43E2F5BMMr5Y9)
 - Kết quả khảo sát: 
 5 Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh cho rằng khối lượng bài tập, nội 
dung phải tự học là vừa đủ, chiếm 50%; tỷ lệ học sinh cho rằng khối lượng bài tập, 
nội dung phải tự học là nhiều và quá nhiều chiếm 45%. Liên hệ với kết quả khảo 
sát thời gian tự học cho thấy cũng có 48% học sinh dành thời gian dưới 2 giờ hoặc 
không nhớ thời gian tự học của học sinh. Có thể số học sinh đánh giá khối lượng 
bài tập tự học là nhiều và quá nhiều chưa dành đủ thời gian cho tự học hoặc có khả 
năng số học sinh này chưa biết cách tự học hoặc khối lượng kiến thức tự học là quá 
sức đối với nhóm học sinh này.
 Kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ học sinh cho rằng thời gian cần thiết để hoàn 
thành bài tập tự học là nhiều và quá nhiều chiếm 32%. Nhóm này có khả năng là 
chưa dành đủ thời gian cho việc tự học hoặc có thể có năng lực tự học, quản lý, 
phân bổ thời gian chưa khoa học, hợp lý.
 Kết quả thống kê cho thấy, tỷ lệ học sinh thường chuyên lên thư viện trường 
hoặc vào mạng Internet để tìm tài liệu, bài tập cho môn học của mình chỉ chiếm 
8%. Trong khi đó, tỷ lệ học sinh thỉnh thoảng lên thư viện hoặc vào Internet phục 
vụ cho việc tự học chiếm 48%, tỷ lệ học sinh mới 1-2 lần lên và không lên thư viện 
hoặc vào mạng Internet vì mục đích học tập đang chiếm 44%.
 7 - Kết quả tốt nghiệp môn Lịch sử của trường THPT Yên Thành 2 năm 2021
 - Kết quả tốt nghiệp môn Lịch sử của trường THPT Yên Thành 2 năm 2022
(Nguồn: Kết quả thi tốt nghiệp các năm do Sở GD&ĐT Nghệ An công bố)
 9 đề thi tham khảo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) trong các năm. Đây là 
nguyên tắc quan trọng để định hướng cho học sinh những vấn đề trọng tâm và xác 
định phương pháp ôn thi phù hợp.
 Theo đề thi THPT do Bộ GD&ĐT đã thực hiện từ năm 2017 đến năm 2023, 
có thể thấy cấu trúc đề thi gồm 40 câu, phân hóa thành 4 mức độ: nhận biết, thông 
hiểu, vận dụng và vận dụng cao. Trong đó, 30 câu đầu là ở mức độ nhận biết và 
thông hiểu, 10 câu còn lại ở mức độ vận dụng và vận dụng cao. Các câu hỏi trong 
đề thi trải rộng trên nội dung kiến thức lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam của 
chương trình Lịch sử lớp 11 và lớp 12 nhưng phần lớn là thuộc về chương trình 
Lịch sử lớp 12. Phần lịch sử Việt Nam luôn chiếm phần lớn các câu hỏi trong cấu 
trúc của đề thi: năm 2017 đến năm 2019 có khoảng 34 - 35 câu, năm 2020 đến năm 
2022 có khoảng 36 đến 38 câu. Trong đó, phần từ năm 1919 đến năm 1945 có số 
lượng câu hỏi khá nhiều. Cụ thể, qua các đề tham khảo của Bộ trong những năm 
gần đây, có thể thấy số lượng các câu hỏi thuộc phần này như sau:
 Mức độ
 Chủ đề Tổng
 NB TH VD VDC
 Năm 2020
 Lịch sử Việt Nam (1930 - 1945) 3 1 1 1 6
 Lịch sử Việt Nam (1919 - 1930) 3 2 3 1 9
 Tổng 6 3 4 2 15 câu
 Năm 2021
 Lịch sử Việt Nam (1919 - 1930) 4 1 2 7
 Lịch sử Việt Nam (1930 - 1945) 4 1 3 1 9
 Tổng 8 2 5 1 16 câu
 Năm 2022
 Lịch sử Việt Nam (1919 - 1930) 2 3 1 6
 Lịch sử Việt Nam (1930 - 1945) 1 5 1 1 8
 Tổng 3 8 2 1 14 câu
 Năm 2023 - Đề tham khảo
 Lịch sử Việt Nam (1919 - 1930) 2 1 2 1 6
 Lịch sử Việt Nam (1930 - 1945) 2 1 2 1 6
 Tổng 4 2 4 2 12 câu
 Như vậy, qua phân tích cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT qua các năm gần 
đây, có thể thấy phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1945 chiếm một phần khá lớn 
(từ 12 câu đến 16 câu, chiếm từ 3 đến 4 điểm), khoảng từ 30 đến 40% tổng số điểm 
của toàn bài thi. Số lượng câu hỏi phần kiến thức này phần nhiều vẫn là các câu 
thuộc mức độ nhận biết và thông hiểu (năm 2020 có 9/15 câu, năm 2021 có 10/16 
câu, năm 2022 có 11/14 câu và năm 2023 sẽ có 6/12 câu). Do đó, có thể khẳng 
định đây là một phần kiến thức rất quan trọng trong quá trình ôn thi. Mặt khác, đây 
 11

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_nang_luc_t.docx