Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn Vật lí Lớp 9
Vật lí là môn khoa học tự nhiên, có ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn. Là cơ sở của các ngành công nghiệp quan trọng trong kĩ thuật như chế tạo máy, điện, luyện kim…
Thông qua giáo dục đào tạo trong nhà trường, các em được làm quen với khoa học, với các kiến thức mới, để giải thích một số hiện tượng xảy ra trong thực tế, từ đó hình thành niềm tin, sự thích thú về môn học và tư duy học tốt các môn học khác. Nhưng trong thực tế, hiện nay đa số phụ huynh và học sinh vẫn còn coi môn vật lí chỉ là môn học phụ, vì vậy các em chưa có ý thức về môn học này.
Trong quá trình giáo dục và đào tạo tri thức cho học sinh, thì việc nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu là mục tiêu chủ chốt, được các nhà trường dành sự quan tâm rất lớn. Vấn đề phụ đạo cho học sinh yếu kém hiện nay đang được các nhà trường quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này.
Vật lí là môn học gắn liền với thực tiễn nên tư duy của học sinh cực kỳ quan trọng. Làm sao để học sinh thuộc và vận dụng linh hoạt các công thức, nhận biết được bản chất các hiện tượng vật lí để giải được các bài toán định tính cũng như định lượng, điều này là vô cùng khó khăn.
Việc phụ đạo học sinh yếu kém là vấn đề quan trọng, cần thiết và không thể thiếu đối với mỗi môn học ở các cấp. Với kinh nghiệm giảng dạy của mình, tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn vật lí lớp 9” mà tôi trình bày dưới đây.
Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn vật lí lớp 9”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn Vật lí Lớp 9

2 PHẦN I: MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài. Vật lí là môn khoa học tự nhiên, có ứng dụng rất nhiều trong thực tiễn. Là cơ sở của các ngành công nghiệp quan trọng trong kĩ thuật như chế tạo máy, điện, luyện kim Thông qua giáo dục đào tạo trong nhà trường, các em được làm quen với khoa học, với các kiến thức mới, để giải thích một số hiện tượng xảy ra trong thực tế, từ đó hình thành niềm tin, sự thích thú về môn học và tư duy học tốt các môn học khác. Nhưng trong thực tế, hiện nay đa số phụ huynh và học sinh vẫn còn coi môn vật lí chỉ là môn học phụ, vì vậy các em chưa có ý thức về môn học này. Trong quá trình giáo dục và đào tạo tri thức cho học sinh, thì việc nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu là mục tiêu chủ chốt, được các nhà trường dành sự quan tâm rất lớn. Vấn đề phụ đạo cho học sinh yếu kém hiện nay đang được các nhà trường quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Vật lí là môn học gắn liền với thực tiễn nên tư duy của học sinh cực kỳ quan trọng. Làm sao để học sinh thuộc và vận dụng linh hoạt các công thức, nhận biết được bản chất các hiện tượng vật lí để giải được các bài toán định tính cũng như định lượng, điều này là vô cùng khó khăn. Việc phụ đạo học sinh yếu kém là vấn đề quan trọng, cần thiết và không thể thiếu đối với mỗi môn học ở các cấp. Với kinh nghiệm giảng dạy của mình, tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn vật lí lớp 9” mà tôi trình bày dưới đây. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh yếu kém môn vật lí lớp 9”. II. Mô tả bản chất của sáng kiến 1. Mục đích nghiên cứu 4 Trước thực trạng đó, tôi luôn học hỏi tìm ra các biện pháp tốt nhất giúp các em tham gia học tập một cách tích cực, chủ động, phát huy tính sáng tạo của các em. Từ đó các em thấy thích được học bộ môn vật lí và ham muốn khám phá kiến thức mới. Kết quả học tập sẽ tốt lên khi các em thực sự thích môn học này, tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập theo yêu cầu của giáo viên. 2.2. Nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu kém a. Về phía học sinh - Những em học sinh lười học thường ham chơi, truy cập nhiều vào các trang mạng xã hội nên không tập trung vào việc học. Học sinh không coi việc học là niềm đam mê, không yêu thích thì không thể có kết quả tốt, thường các em chỉ coi việc học như là nhiệm vụ bắt buộc cho qua ngày. Nhiều em mặc dù chậm hơn nhưng có thể nỗ lực chăm chỉ hơn thì các em vẫn biết cách học như thế nào để nắm bắt được kiến thức. Như vậy thì học sinh lười học là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng yếu kém của các em. - Các em học sinh vùng nông thôn, thường có điều kiện khó khăn hơn các em ở thành phố nên các em phải đi làm phụ giúp gia đình. Do đó quĩ thời gian các em dành cho việc tự học tập ở nhà là rất ít. Nếu có thì cũng chỉ đủ thời gian để làm bài tập cho xong chứ còn đâu thời gian để tìm tòi thêm kiến thức. Tuy nhiên trong số đó vẫn có những em học rất tốt là vì các em có phương pháp học tập, tư duy hợp lý. - Kiến thức thì được sắp xếp lôgic từ lớp nhỏ đến lớp lớn. Do học sinh học tập không tốt từ những lớp nhỏ nên việc học tập những lớp về sau chắc chắn sẽ không tốt vì học tập là quá trình tích lũy kiến thức. Học sinh kém thường bị mất gốc nên có tâm lý sợ học, tuy nhiên không tìm được phương pháp phù hợp để khắc phục. - Nhiều học sinh gặp phải tình trạng mặc dù học rất nhiều, có vẻ rất chăm chỉ nhưng kết quả mang lại chưa cao, không như mong muốn. Những em học sinh đó thường học qua loa, học vẹt. Chưa tìm được phương pháp học tập phù hợp đối với chính bản thân mình. 6 thông minh và máy tính, như vậy cha mẹ đã vô tình tạo điều kiện cho con ham chơi, lười học, mất dần kiến thức cơ bản... 3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng học sinh yếu kém 3.1. Về kỹ năng sư phạm - Thầy cô phải chuẩn bị kỹ bài trước khi lên lớp, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu các vấn đề liên quan phù hợp với từng bài học; cần quan tâm đến tính cách của học sinh, hình thành giáo án theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. - Giáo viên phải tạo được thiện cảm của học sinh ngay từ cái nhìn đầu tiên qua cách ăn mặc, đi đứng, nói năng đúng chuẩn mực đạo đức. Đối với học sinh cá biệt, tôi chọn cách gặp riêng để nói chuyện với các em, kết hợp chặt chẽ với phụ huynh. - Bằng những cử chỉ thân thiện thể hiện qua lời nói, nét mặt vui vẻ của giáo viên mà học sinh sẽ thấy được bầu không khí vui tươi trong lớp học. Giáo viên và học sinh không nên tạo bầu không khí căng thẳng, nặng nề trong giờ học. - Giáo viên phải luôn tôn trọng ý kiến trả lời của học sinh, không nên gò ép học sinh vào khuôn phép cứng nhắc, sắp xếp ngay theo thứ tự của mình. - Giáo viên phải biết cách động viên học sinh đúng lúc khi học sinh trả lời được câu hỏi do giáo viên giao cho, kể cả không trả lời được thì cũng khuyến khích các em để tạo cho các em có sự tự tin vào bản thân, tích cực tham gia vào các hoạt động khác. - Trong khi giảng dạy môn vật lí lời nói của giáo viên quyết định đến nhận thức của học sinh trong khi rút ra kết luận, định nghĩa, phát biểu định luật Do đó lời nói của giáo viên phải chính xác, rõ ràng, đầy đủ. Giọng nói phải có nhịp điệu, điểm nhấn để lôi cuốn người nghe. - Thí nghiệm thực hành: Là một yếu tố quyết định thành công của một bài lên lớp. Đối với môn vật lí, thông thường kết luận, định luật, đều rút ra từ kết quả thí nghiệm. Giáo viên hướng dẫn làm thí nghiệm thực hành tốt quyết định 8 - Thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập, diễn biến tư tưởng của các em, qua đó giúp gia đình nắm bắt tình hình học tập của con mình tại trường và cùng với giáo viên kịp thời uốn nắn những mặt còn chưa tốt của các em, động viên các em một cách kịp thời. - Khi nói chuyện với phụ huynh, không kể tội học trò mà chỉ bàn bạc với phụ huynh cách giúp các em tiến bộ. - Với các em ham chơi điện thoại, nghiện game, sử dụng mạng xã hội vào mục đích không tốt... cần trao đổi với phụ huynh để lập thời gian biểu cho các em học tập tại nhà.. - Với những đối tượng học sinh yếu kém nhưng ý thức chưa tốt, mặc dù giáo viên đã có sự tác động nhưng không có sự tiến bộ thì giáo viên phải nhờ tới sự can thiệp của ban giám hiệu, để có các biện pháp phù hợp với các đối tượng học sinh. 3.4. Hướng dẫn học sinh cách ôn tập và chuẩn bị một tiết học vật lí - Giáo viên cần cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học tập tại nhà. Làm việc ở nhà là một trong những yếu tố cần thiết để học sinh tự củng cố, tự đào sâu, tự mở rộng, tự khám phá kiến thức. Việc tự học ở nhà của học sinh đối với môn vật lí đó là ôn tập, hệ thống hóa kiến thức đã học, vận dụng kiến thức đã học để giải bài tập do giáo viên yêu cầu. - Đối với học sinh yếu kém cần phải đưa ra bài tập những dạng cơ bản, vận dụng những công thức một cách đơn giản nhất mà học sinh có thể củng cố lại kiến thức đã được học ở trên lớp. Để chuẩn bị cho bài học tiếp theo, giáo viên đưa ra yêu cầu cụ thể như các em cần mang dụng cụ gì, cần chuẩn bị những phần câu hỏi nào. Ví dụ: Để chuẩn bị cho bài học sau bài 21: Nam châm vĩnh cửu về nhà các em chuẩn bị và làm theo đề cương sau: * Dụng cụ thí nghiệm: chia lớp thành 6 nhóm, mỗi nhóm mang 2 nam châm. * Kiến thức: Về nhà đọc trước nội dung lý thuyết bài 21- Nam châm vĩnh cửu và suy nghĩ, dự đoán đáp án điền vào chỗ trống những câu hỏi sau: - Các em thường thấy nam châm ở vật dụng nào?........... - Khi đưa đinh sắt lại gần nam châm thì đinh sắt sẽ bị nam châm 10 Học sinh hoạt động nhóm theo kỹ thuật khăn trải bàn 12 A. Cường độ dòng điện qua một dây dẫn tỉ lệ với hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn đó. B. Cường độ dòng điện chạy qua một dây dẫn tỉ lệ thuận với hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn đó. C. Cường độ dòng điện qua một dây dẫn tỉ lệ nghịch với hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn đó. D. Cường độ dòng điện qua một dây dẫn không tỉ lệ với hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn đó. Câu 2: Khi hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn tăng thì: A. Cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn không thay đổi. B. Cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn giảm tỉ lệ với hiệu điện thế. C. Cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn có lúc tăng, lúc giảm. D. Cường độ dòng điện chạy qua dây dẫn tăng tỉ lệ với hiệu điện thế. Câu 3: Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế giữa hai đầu dây dẫn có dạng là A. Một đường thẳng đi qua gốc tọa độ. C. Một đường thẳng không đi qua gốc tọa độ . B. Một đường cong đi qua gốc tọa độ. D. Một đường cong không đi qua gốc tọa độ. Câu 4: Điện trở R của dây dẫn biểu thị cho A. Tính cản trở dòng điện nhiều hay ít của dây. B. Tính cản trở hiệu điện thế nhiều hay ít của dây C. Tính cản trở electron nhiều hay ít của dây. D. Tính cản trở điện lượng nhiều hay ít của dây. Câu 5: Biểu thức đúng của định luật Ôm là: U U R A. R = . B. I = . C. I = . D. U = I.R. I R U 14 A. I2=3,5A; I1=4,6A C. I1=I2= 3,5A B. I1=I2=2A D. I1=I2= 4,6A Câu 3: Hai điện trở R 1 = 8Ω , R2 = 2Ω mắc song song với nhau vào hiệu điện thế U = 3,2V . Cường độ dòng điện chạy qua mạch chính là bao nhiêu? A. I= 2A C. I= 0,4A B. I= 1,6A D. I= 2,5A Câu 4: Mắc ba điện trở R 1 = 2Ω , R2 = 3Ω , R3 = 6Ω song song với nhau vào mạch điện. Cường độ dòng điện qua mạch chính là 1,5A. Tính HĐT đặt vào 2 đầu mỗi điện trở? A. U= 3V C. U= 9V B. U= 4,5V D. U= 1,5V Câu 5: 2 điện trở có R 1= 5Ω và R2 mắc nối tiếp vào mạch có U=12V và cường độ dòng điện I= 0,6A. Tính R2? A. R2= 20Ω C. R2= 15Ω B. R2= 10Ω D. R2= 12Ω II. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. - Học sinh lớp 9 đại trà. - Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học khác. - Sự quan tâm, động viên của lãnh đạo nhà trường, bạn bè, đồng nghiệp. IV. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử theo nội dung sau: - Về kiến thức: + Học sinh hiểu bài tốt hơn, ghi nhớ bài học sâu hơn. + Biết áp dụng lí thuyết vào làm bài tập. - Về kĩ năng: + Học sinh thành thạo các công thức đã học và áp dụng các công thức đó vào giải bài tập. 16 Khi áp dụng các biện pháp đưa ra vào đầu năm học 2023 - 2024, kết quả đến khi kết thúc học kỳ I vẫn yêu cầu học sinh khảo sát trả lời câu hỏi lần trước “Em có thích học môn vật lí không?” theo hình thức trên giấy, sau khi kiểm tra kết quả, thu được bảng số liệu như sau: Bảng số liệu 2 Số học sinh LỚP Không thích Bình thường Thích Rất thích khảo sát 9B 44 5 11 19 9 9C 44 10 15 13 6 9E 38 9 16 10 3 LỜI CẢM ƠN Do điều kiện cuộc sống của gia đình mỗi học sinh khác nhau nên điều kiện vật chất cũng như sự quan tâm phối hợp của phụ huynh chưa được tốt lắm. Đồng thời điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường cũng chưa đáp ứng đầy đủ các phương tiện dạy học cũng như không phải chỉ có bản thân một giáo viên có thể thực hiện được mà đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, phối hợp giữa các giáo viên cùng bộ môn thì mới thực hiện được. Sau khi thực hiện, bản thân tôi đã vận dụng vào thực tế giảng dạy và tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, đồng thời tìm thêm biện pháp. Mặc dù rất cố gắng trong quá trình thực hiện các biện pháp này nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí đồng nghiệp, các đồng chí lãnh đạo nhà trường đã tạo điều kiện để tôi có thể hoàn thành giải pháp của mình. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô, để kinh nghiệm của bản thân được nâng cao và các biện pháp khoa học của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_lu.doc