Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao thể lực cho học sinh Lớp 8 trong giảng dạy giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất (GDTC) trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. GDTC có tác dụng tích cực đối với sự hoàn thiện nhân cách, nhằm đào tạo con người mới phát triển toàn diện, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng. Chính vì thế, trong chương trình Giáo dục phổ thông 2018 thì môn GDTC là môn học bắt buộc.
Nghị quyết Trung ương 08/NQ/TW ngày 1/12/2011 của Đảng đã khẳng định: “thực hiện các nhiệm vụ xây dựng con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc có trình độ làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo và có sức khỏe” trong đó nhấn mạnh: “đối với giáo dục điều đáng quan tâm nhất là chất lượng, hiệu quả giáo dục và yêu cầu giáo dục phải nhằm vào mục tiêu thực hiện giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ trong tất cả các cấp học”.
Công tác GDTC ngày nay trong các trường học đã được quan tâm về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo. Tuy nhiên, công tác giảng dạy GDTC trong các trường trung học cơ sở (THCS) còn nhiều khó khăn.
Cụ thể, giảng dạy GDTC trong trường học vẫn còn mang nặng hình thức, số lượng thực tế trang thiết bị phục vụ TDTT có hạn chế: Các thiết bị, dụng cụ tập luyện, nhà tập, sân bãi còn thiếu. Quy trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức và nội dung để tạo ra các hình thức luyện tập ở trường THCS chưa được hợp lý, phương tiện GDTC còn đơn điệu thiếu sinh động chưa gây hứng thú học tập cho học sinh, hình thức lên lớp còn nghèo nàn. Hơn nữa có những biểu hiện phát triển không cân đối, học sinh rất thích chơi thể thao nhưng lại không thích học môn GDTC, coi giờ học GDTC như giờ vui chơi nên học sinh không chú tâm luyện tập. Sự quan tâm, đầu tư của lãnh đạo các trường không thống nhất, cán bộ làm công tác giảng dạy và hoạt động phong trào TDTT ở các trường còn thiếu và không thường xuyên được bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng Tác giả: Dương Quang Cao Trường THCS An Hải và hiệu quả công tác giảng dạy GDTC trong các trường THCS.
Trong bối cảnh đó, loại hình trường THCS có vị trí đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nó nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân nhưng ở vị trí mũi nhọn của sự nghiệp giáo dục đào tạo chung. Với những đặc thù riêng, trường THCS An Hải nói riêng có những đặc điểm khác biệt so với các trường THCS nói chung. Những khác biệt này gây ra nhiều khó khăn trong công tác dạy học môn GDTC bắt buộc các trường THCS, cũng như giáo viên giảng dạy GDTC tại trường phải có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp, còn nếu máy móc áp dụng chương trình chung và phương pháp chung như các trường THCS khác thì sẽ rất khó đạt được hiệu quả.
Về tâm lý, hầu hết giáo viên, phụ huynh, học sinh trong trường tập trung vào tham gia các cuộc thi và học các môn văn hóa, nên thường xem nhẹ các giờ học giáo dục thể chất. Các em ngồi học, đọc sách quá nhiều, ít vận động, cho nên căn bản thể lực có nhiều hạn chế, nhiều em có các tật về mắt, như cận viễn loạn thị.
Trên thực tế có một số công trình nghiên cứu về nâng cao thể lực cho học sinh qua môn giáo dục thể chất. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều sáng kiến về các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất tại các trường THCS. Xuất phát từ những lý do nêu trên tôi tiến hành nghiên cứu nội dung: “Một số biện pháp nâng cao thể lực cho học sinh lớp 8 trong giảng dạy giáo dục thể chất”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao thể lực cho học sinh Lớp 8 trong giảng dạy giáo dục thể chất

PHẦN MỞ ĐẦU Giáo dục thể chất (GDTC) trong nhà trường là một bộ phận không thể thiếu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. GDTC có tác dụng tích cực đối với sự hoàn thiện nhân cách, nhằm đào tạo con người mới phát triển toàn diện, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng. Chính vì thế, trong chương trình Giáo dục phổ thông 2018 thì môn GDTC là môn học bắt buộc. Nghị quyết Trung ương 08/NQ/TW ngày 1/12/2011 của Đảng đã khẳng định: “thực hiện các nhiệm vụ xây dựng con người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc có trình độ làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo và có sức khỏe” trong đó nhấn mạnh: “đối với giáo dục điều đáng quan tâm nhất là chất lượng, hiệu quả giáo dục và yêu cầu giáo dục phải nhằm vào mục tiêu thực hiện giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ trong tất cả các cấp học”. Công tác GDTC ngày nay trong các trường học đã được quan tâm về cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo. Tuy nhiên, công tác giảng dạy GDTC trong các trường trung học cơ sở (THCS) còn nhiều khó khăn. Cụ thể, giảng dạy GDTC trong trường học vẫn còn mang nặng hình thức, số lượng thực tế trang thiết bị phục vụ TDTT có hạn chế: Các thiết bị, dụng cụ tập luyện, nhà tập, sân bãi còn thiếu. Quy trình quản lý, chỉ đạo, tổ chức và nội dung để tạo ra các hình thức luyện tập ở trường THCS chưa được hợp lý, phương tiện GDTC còn đơn điệu thiếu sinh động chưa gây hứng thú học tập cho học sinh, hình thức lên lớp còn nghèo nàn. Hơn nữa có những biểu hiện phát triển không cân đối, học sinh rất thích chơi thể thao nhưng lại không thích học môn GDTC, coi giờ học GDTC như giờ vui chơi nên học sinh không chú tâm luyện tập. Sự quan tâm, đầu tư của lãnh đạo các trường không thống nhất, cán bộ làm công tác giảng dạy và hoạt động phong trào TDTT ở các trường còn thiếu và không thường xuyên được bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đã ảnh hưởng không nhỏ thực hành. Học sinh học theo chủ đề đôi lúc dẫn đến tình trạng chán học của học sinh. Qua đó, bản thân nhận thấy những vấn đề sau: - Đối với học sinh: + Tình trạng chung hiện nay là học sinh thụ động, không tập trung nghe giảng, ham chơi, không tư duy. + Lười nghiên cứu các thông tin của bài học nên chưa thật sự mang lại hiệu quả cao trong các giờ lên lớp. + Chưa có phương pháp học tập bộ môn phù hợp nên từ đó dẫn đến tình trạng chán học. - Đối với giáo viên: + Phân loại chưa rõ ràng các câu hỏi kết hợp bài tập hướng dẫn học sinh hoạt động. + Cách đặt vấn đề và sử dụng hệ thống câu hỏi kích thích tư duy học sinh chưa phù hợp. + Chưa nghiên cứu sâu vấn đề khai thác kiến thức như thế nào để học sinh tích cực hơn trong quá trình học tập nhằm nâng cao chất lượng bộ môn. + Chưa chú tâm nhiều đến việc dự giờ thăm lớp để cùng bàn luận, tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình giảng dạy và rút kinh nghiệm cho các giờ dạy sau. + Chưa phân loại được rõ ràng các đối tượng học sinh để có phương pháp dạy học phù hợp. Kết quả thực nghiệm đầu năm như sau: + Trường THCS An Hải. Tổng số Đạt Chưa đạt Năm học học sinh SL % SL % 2022- HK I 102 65 63,7 37 36,3 2023 + Trường THCS An Vĩnh. chưa đạt hiệu quả. 3.GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 3.1. Căn cứ thực hiện: Căn cứ vào định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn GDTC trong giai đoạn hiện nay, đã được xác định là “Phương pháp dạy học Thể chất trong nhà trường các cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học; hình thành và phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy”. Trước yêu cầu cấp bách đó, giáo viên Trường THCS An Hải nói riêng và đội ngũ giáo viên dạy giáo dục thể chất nói chung luôn học hỏi tìm ra các biện pháp giảng dạy tốt nhất giúp học sinh tham gia một cách tích cực, chủ động vào học tập, phát huy tính năng động, sáng tạo của mình. Kết quả học tập chỉ đạt được tối đa khi học sinh thực sự có hứng thú học môn học này, chủ động tham gia vào các hoạt động, tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập theo yêu cầu của giáo viên. Chính điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu và viết sáng kiến này. 3.2. Nội dung, giải pháp và cách thức thực hiện: 3.2.1. Sức mạnh và tốc độ: Sức mạnh là khả năng khắc phục lực cản bên trong hoặc bên ngoài bằng sự nỗ lực cơ bắp và hệ vận động. Sức mạnh bền là sự kết hợp giữa sức mạnh và sức bền, là khả năng thực hiện động tác nhiều lần và khắc phục lực cản (trọng lượng phụ) cho trước trong thời gian dài. Trong các môn GDTC khác nhau đòi hỏi học sinh phải có sức mạnh bền trong thời gian dài hoặc ngắn khác nhau. ❖ Sức mạnh phụ thuộc vào các điều kiện sau: + Tiết diện ngang của cơ bắp. + Tính linh hoạt của hoạt động thần kinh + Tốc độ phản ứng của hóa học trong tế bào cơ + Tốc độ kỹ thuật của người tập. cứu đã chứng minh được yếu tố di truyền có vai trò quan trọng đối với việc phát triển của sức mạnh. Tố chất sức mạnh Hệ số di truyền Nhân tố môi trường Sức mạnh tương đối 0.35 0.56 Sức mạnh tuyệt đối 0.643 0.357 + Lựa chọn một số bài tập nâng cao sức mạnh và tốc độ: - Chạy đạp sau. - Chạy nâng cao đùi. - Chạy bước nhỏ. - Chạy lò cò. - Bật nhảy đổi chân. - Nhảy cóc. + Các giải pháp thực hiện: Ví dụ 1: CHỦ ĐỀ 1: CHẠY CỰ LI NGẮN (60 M) BÀI 1: PHỐI HỢP TRONG GIAI ĐOẠN XUẤT PHÁT CAO VÀ CHẠY LAO SAU XUẤT PHÁT - GV cho HS khởi động: + Khởi động chung: Chạy tại chỗ, xoay các khớp. + Khởi động chuyên môn: chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy đạp sau cự li ngắn 7 - 10 m; chạy tăng tốc độ cự li 10m -15 m. - HS khởi động theo hướng dẫn của GV và trả lời câu hỏi. - GV đánh giá, nhận xét, chuẩn kiến thức Ví dụ 2: BAI 2: PHỐI HỢP TRONG GIAI ĐOẠN CHẠY LAO SAU XUẤT PHÁT VÀ CHẠY GIỮA QUÃNG. Hoạt động khởi động : a. Mục tiêu: Tạo tâm thế hứng thú cho học sinh và từng bước làm quen bài học. b. Nội dung: GV cho HS khởi động, nêu vấn đề; HS khởi động và trả lời 3.2.2. Sức nhanh: - Bên cạnh tố chất sức mạnh thì năng lực sức nhanh là một yếu tố rất quan trọng, đặc biệt thiên về các môn có tần số động tác. - Tốc độ là năng lực của cơ thể hoạt động với tốc độ nhanh. Tốc độ của VĐV là năng lực dùng tần số động tác nhanh nhất để kết thúc một động tác nhất định. - Tốc độ bao gồm: tốc độ phản ứng, tốc độ động tác và tốc độ di chuyển vị trí. + Tốc độ phản ứng: Chỉ sự phản ứng nhanh chậm của cơ thể đối với một kích thích. + Tốc độ động tác: Chỉ mức độ hoàn thành động tác nhanh, chậm trong một đơn vị thời gian của một bộ phận cơ thể. + Tốc độ di chuyển: Là sự di chuyển của cơ thể trên một cự ly trong một đơn vị thời gian. Sức nhanh là tố chất cụ thể của con người thể hiện khả năng thực hiện một hoạt động vận động nhất định nào đó trong thời gian ngắn nhất. Người ta phân biệt ba hình thức đơn giản biểu hiện sức nhanh như sau: + Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động. + Tốc độ động tác đơn (với lượng vận động đối kháng bên ngoài nhỏ) + Tần số động tác. - Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc biệt, những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan với tốc độ động tác. Những hình thức kể trên là thể hiện các năng lực tốc độ khác nhau. - Huấn luyện sức nhanh luôn cần phải đặt người tập tập luyện trong điều kiện sử dụng tốc độ gần tối đa. Trước hết, việc nắm vững và củng cố kỹ thuật phải được sự chú ý bồi dưỡng rồi phải thực hiện kỹ thuật với các yêu cầu dùng sức lớn nhất đối với biên độ và tần số tối đa. - Việc tập luyện tố chất sức nhanh đòi hỏi sự căng thẳng cao ở hệ thần Trò chơi “Đuổi bắt theo khẩu lệnh” - HS luyện tập cá nhân: + Tự hô khẩu lệnh: ♦ Xuất phát cao và chạy lao sau xuất phát cự li 7 - 10 m. ♦ Đứng vai và lưng hướng chạy, quay người xuất phát và chạy ra trước 3 - 5 bước. + Xuất phát cao và chạy theo quán tính. - HS luyện tập nhóm: Xuất phát từ các tư thế khác nhau và phối hợp chạy cự li 7 - 10 m. HS luân phiên chỉ huy nhóm luyện tập, quan sát và đánh giá kết quả luyện tập của các bạn nhóm trong nhóm:. - GV mời HS quan sát, nhận xét động tác luyện tập. Trò chơi “Chạy nâng cao đùi theo vạch” Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập: - HS luyện tập cá nhân: + Phối hợp xuất phát và chạy lao sau xuất phát cự li 7- 10 m. + Chạy tăng tốc độ và duy trì tốc độ cao cự li 15 - 20 m, sau đó chạy theo quán tính. + Xuất phát cao chạy 30 m, sau đó chạy theo quán tính. - HS luyện tập nhóm: HS luân phiên chỉ huy nhóm luyện tập, quan sát và đánh giá kết quả luyện tập của các bạn nhóm trong nhóm: + Xuất phát cao và chạy nhanh cự li 30m. + Xuất phát cao theo tín hiệu khác nhau và chạy nhanh cự li 10-15m. + Chạy tăng tốc độ và duy trì tốc độ cao cự ki 15-20m (hoặc 20-25m) luân phiên với chạy chậm cự li 15-20m (20-25m). - HS luyện tập chung cả lớp: HS chơi trò chơi phát triển sức nhanh. Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận: - GV mời cá nhân, cặp đôi, nhóm, cả lớp luyện tập. Trò chơi “Bạc nhảy tiếp sức theo vạch” 3.2.3. Sức bền: Sức bền chuyên môn là chỉ năng lực của cơ thể duy trì cường độ vận động lớn trong một thời gian nhất định. Thông thường lấy thành tích vận động, đặc biệt là lấy thành tích của cả giải đấu làm chỉ tiêu đánh giá sức bền chuyên môn. Trình độ sức bền càng cao, mệt mỏi càng xuất hiện chậm, thời gian duy trì năng lực làm việc ở mức độ cao càng dài. Tố chất sức bền có thể chia làm 4 loại sau: - Sức bền chung. - Sức bền tốc độ. - Sức bền mạnh. - Sức bền tĩnh lực. Sức bền chung là nền móng của sức bền tốc độ và sức bền chuyên môn. Căn cứ vào đặc điểm của môn GDTC, việc phát triển sức bền chung chủ yếu dùng các phương pháp sau: + Sử dụng biện pháp phát triển sức mạnh, chú ý sức bền mạnh và sức bền tốc độ, có nghĩa là trọng lượng nhẹ, số lần lặp lại nhiều, tốc độ nhanh. Ngoài ra cần chú ý các nhóm cơ và phương thức tiến hành động tác. Để đạt được thành tích cao trong hoạt động thể thao thì không thể bỏ qua sức bền- một yếu tố đặc biệt quan trọng trong thể thao và trong đời sống xã hội. + Các giải pháp thực hiện: VÍ DỤ 1: BÀI 3: PHỐI HỢP CÁC GIAI ĐOẠN CHẠY CỰ LI NGẮN (60m) Hoạt động khởi động: a. Mục tiêu: Tạo tâm thế hứng thú cho học sinh và từng bước làm quen bài học. b. Tổ chức thực hiện: Bước 1: GV chuyển giao nhiệm vụ học tập - GV cho HS khởi động: + Khởi động chung: chạy tại chỗ, xoay các khớp. + Khởi động chuyên môn: chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy đáp sau cự li ngắn 7 - 10 m; chạy tăng tốc độ cự li 10 -15 m. - GV tổ chức cho HS chơi trò chơi hỗ trợ khởi động: Trò chơi Phối hợp lăn bóng theo vạch + GV chuẩn bị: các bạn tham gia trò chơi được chia thành nhiều độ có số người bằng nhau, mỗi đội đứng thành hai hàng dọc sau vạc xuất phát + GV hướng dẫn HS cách chơi: ♦ Khi có hiệu lệnh, lần lượt hai bạn của mỗi đội di chuyển ngang từ vạch xuất phát đến đích, phối hợp lăn bóng cho bạn và đón bóng của bạn lăn đển bằng 1 tay theo vạch kẻ trên sân, sau khi vượt qua vạch đích đi về cuối hàng. ♦ Hai bạn tiếp theo chỉ xuất phả khi hai bạn phía trước đã lăn bóng đến đích ♦ Đội hoàn thành đầu tiên là đội thắng cuộc. Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ học tập: - HS luyện tập cá nhân: + Chạy 5-7 bước xác định chân giậm nhảy. + Đặt chân giậm nhảy: Đứng chân trước, chân sau, tập đặc chân giậm nhảy thực hiện 5-7 lần. +Vịn tay cùng với bên giậm vào vật cố định(Cây, tường...) tập đặt chân giậm nhảy, giậm nhảy đá lăng, thực hiện 5-7 lần. + Tại chỗ tập đặt chân giậm nhảy đá lăng và tay từ chậm đến nhanh, thực hiện 3-5 lần. + Đi, chạy 1- 3 bước thực hiện phối hợp giậm nhảy đá lăng, rơi xuống bằng chân giậm nhảy, thực hiện 5-7 lần. - HS luyện tập chung cả lớp: HS chơi trò chơi phát triển sức mạnh Bước 3: Báo cáo kết quả hoạt động và thảo luận: - GV mời cá nhân, cặp đôi, nhóm, cả lớp luyện tập. - GV mời HS quan sát, nhận xét động tác luyện tập. Bước 4: Đánh giá kết quả, thực hiện nhiệm vụ học tập GV đánh giá, nhận xét, sửa sai cho HS (nếu có). VÍ DỤ 3: PHỐI HỢP CÁC KĨ THUẬT NHẢY CAO KIỂU BƯỚC QUA Tổ chức trò chơi phát triển sức mạnh: - GV tổ chức cho HS chơi trò chơi Vượt rào. - GV hướng dẫn HS: + GV chuẩn bị: HS tham gia trò chơi được chia thành nhiều đội có số người bằng nhau, mỗi đội đứng thành một hàng dọc sau vạch xuất phát. + Thực hiện: Khi có hiệu lệnh, lần lượt từng HS của mỗi đội lò cò bật nhảy qua rào, sau khi vượt qua rào cuối, chạy quay về và đứng vào cuối hàng. HS tiếp theo chỉ xuất phát khi HS thực hiện trước đã vượt qua vạch xuất phát. Đội hoàn thành đầu tiên là đội thắng cuộc. Trò chơi “Vượt rào”
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_the_luc_cho.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao thể lực cho học sinh Lớp 8 trong giảng dạy giáo dục.pdf