Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh Lớp 1 Trường Tiểu học Đông Sơn
Tiếng Việt nói chung, Tiếng Việt ở bậc Tiểu học nói riêng là một môn học có vị trí đặc biệt quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Tiếng Việt rất cần thiết để học sinh, học tốt các môn học khác. Học Tiếng Việt sẽ giúp học sinh được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm. Đây chính là con đường giúp các em phát triển toàn diện, năng động và sáng tạo, thích ứng với các yêu cầu mới của thời kì hội nhập.
Ở lớp 1, các em học sinh bước đầu làm quen và hình thành cả 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng đọc là rất quan trọng và “đọc đúng” là rất cần thiết. Có đọc đúng thì các em mới viết đúng, nói đúng. Từ việc đọc đúng mới tiến đến đọc nhanh, đọc hay và hiểu được nội dung.
Thế nhưng trong thực tế, trường tiểu học của tôi trong hai năm học gần đây, sự đổi mới chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 nhiều học sinh nhận thức chậm không theo kịp, khó có thể đạt mục tiêu đọc thông, viết thạo nếu giáo viên chưa tìm ra giải pháp rèn cho các em luyện đọc đúng cách.
Nhận thức được tầm quan trọng của môn Tiếng Việt đối với học sinh lớp 1, ngay từ đầu năm học tôi đã tìm hiểu trình độ nhận thức của học sinh thông qua trao đổi với giáo viên lớp 5 tuổi và qua theo dõi việc học Tiếng Việt ở những tuần đầu năm học. Tôi nhận thấy trình độ nhận thức và năng lực của các em không đồng đều, còn nhiều học sinh nhận thức chậm chưa thuộc bảng chữ cái; một số em phát âm chưa đúng phụ âm đầu: L/n, tr/ch, gi/d/r, s/x.
Một số em phát âm chưa đúng dấu thanh: thường nhầm lẫn thanh ngã thành thanh sắc, thanh ngã thành thanh hỏi (VD: ngã – ngá, ngã – ngả).
Một số phát âm chưa đúng về vần: VD: bẩn – bửn, lựu – lịu,, …. Các em còn hay phát âm nhầm lẫn giữa các vần có âm cuối n/t, m/p, ng/c, nh/n với nhau (VD: tan – tam – tang, nhát – nháp – nhác, anh – ăn, …).
Một số em chưa nắm vững cách đánh vần: Các em được bố mẹ dạy đánh vần ở nhà theo cách cũ, lên lớp cô dạy theo cách mới nên các em nhầm lẫn, không nhớ cách đánh vần để học.
Một số em làm theo còn máy móc, theo kiểu bắt chước chứ chưa nắm được cách làm để thực hiện cho đúng nên các em dễ nhớ nhưng mau quên, chưa nắm được bản chất.
Nếu như giáo viên không quan tâm kèm cặp hỗ trợ các em kịp thời thì dễ có nguy cơ không hoàn thành chương trình lớp học hoặc hoàn thành chương trình chưa vững chắc. Đây cũng là vấn đề các bậc cha mẹ, xã hội cần quan tâm. Nhất là trong giai đoạn dạy học theo chương trình phổ thông 2018.
Là giáo viên tôi luôn trăn trở “Làm thế nào để giúp các em học sinh lớp 1 đọc đúng, học tốt môn Tiếng Việt”. Chính vì vậy, tôi tiến hành nghiên cứu, áp dụng: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh lớp 1.”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh Lớp 1 Trường Tiểu học Đông Sơn

1. Giải pháp cũ thường làm: Tiếng Việt nói chung, Tiếng Việt ở bậc Tiểu học nói riêng là một môn học có vị trí đặc biệt quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Tiếng Việt rất cần thiết để học sinh, học tốt các môn học khác. Học Tiếng Việt sẽ giúp học sinh được học cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm. Đây chính là con đường giúp các em phát triển toàn diện, năng động và sáng tạo, thích ứng với các yêu cầu mới của thời kì hội nhập. Ở lớp 1, các em học sinh bước đầu làm quen và hình thành cả 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng đọc là rất quan trọng và “đọc đúng” là rất cần thiết. Có đọc đúng thì các em mới viết đúng, nói đúng. Từ việc đọc đúng mới tiến đến đọc nhanh, đọc hay và hiểu được nội dung. Thế nhưng trong thực tế, trường tiểu học của tôi trong hai năm học gần đây, sự đổi mới chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 nhiều học sinh nhận thức chậm không theo kịp, khó có thể đạt mục tiêu đọc thông, viết thạo nếu giáo viên chưa tìm ra giải pháp rèn cho các em luyện đọc đúng cách. Nhận thức được tầm quan trọng của môn Tiếng Việt đối với học sinh lớp 1, ngay từ đầu năm học tôi đã tìm hiểu trình độ nhận thức của học sinh thông qua trao đổi với giáo viên lớp 5 tuổi và qua theo dõi việc học Tiếng Việt ở những tuần đầu năm học. Tôi nhận thấy trình độ nhận thức và năng lực của các em không đồng đều, còn nhiều học sinh nhận thức chậm chưa thuộc bảng chữ cái; một số em phát âm chưa đúng phụ âm đầu: L/n, tr/ch, gi/d/r, s/x. Một số em phát âm chưa đúng dấu thanh: thường nhầm lẫn thanh ngã thành thanh sắc, thanh ngã thành thanh hỏi (VD: ngã – ngá, ngã – ngả). Một số phát âm chưa đúng về vần: VD: bẩn – bửn, lựu – lịu,, . Các em còn hay phát âm nhầm lẫn giữa các vần có âm cuối n/t, m/p, ng/c, nh/n với nhau (VD: tan – tam – tang, nhát – nháp – nhác, anh – ăn, ). Một số em chưa nắm vững cách đánh vần: Các em được bố mẹ dạy đánh vần ở nhà theo cách cũ, lên lớp cô dạy theo cách mới nên các em nhầm lẫn, không nhớ cách đánh vần để học. Khi phát âm mẫu, giáo viên cần lựa chọn vị trí đứng thích hợp, sao cho cả lớp đều nghe thấy và nhìn thấy cô phát âm. Giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng nghe và quan sát khi cô phát âm mẫu. Với những âm, vần học sinh phát âm hay nhầm lẫn, giáo viên cần hướng dẫn chậm, tỉ mỉ, từ hình dáng môi, lưỡi, răng, hơi, - VD: Học sinh phát âm nhầm lẫn l/n; gi/d/r giáo viên hướng dẫn học sinh: + Âm /l/: Uốn cong lưỡi rồi phát âm bật mạnh ra. + Âm /n/: Lưỡi sát với lợi trên, sau đó bật lưỡi cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi. + Âm /gi/: Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau, phát âm hơi nhấn giọng, kéo dài tạo âm gió. + Âm /d/: Hai hàm răng cắn nhẹ vào nhau, mở miệng và phát âm nhẹ. + Âm /r/: Uốn cong, rung lưỡi khi phát âm. Học sinh nhầm lẫn khi phát âm vần có âm cuối n/t; m/p; ng/c, giáo viên cần hướng dẫn học sinh: + Vần có âm cuối /n/: Môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Vần có âm cuối /p/: Môi mở hơi rộng, khi phát âm xong miệng ngậm lại. + Vần có âm cuối /c/: Khi phát âm miệng mở rộng. Với những học sinh nhầm lẫn khi phát âm dấu thanh, giáo viên hướng dẫn học sinh: + Thanh ngã: Đọc nhấn mạnh, miệng hơi bẹt, hơi kéo dài. + Thanh sắc: Đọc nhẹ hơn, hơi ngắn, không kéo dài. + Thanh hỏi: Phát âm nhẹ, kéo dài hơi. + Thanh nặng: Phát âm nặng, dứt khoát. Sau khi hướng dẫn học sinh phát âm cần cho học sinh thực hành trong nhóm để tạo sự tương tác giữa hai học sinh ngồi cùng nhau. Rèn cho học sinh kĩ năng phát hiện và hỗ trợ bạn khi bạn gặp khó khăn. 1.3 Giải pháp 3: Biện pháp khi dạy các bài học trong sách giáo khoa 2.3.1. Đối với dạng bài dạy âm, vần Phần âm Tôi cho học sinh phải thuộc tên gọi chữ cái in hoa và chữ cái in thường. Có nắm chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép các chữ cái với nhau để tạo thành vần thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Đối với các âm ghép, đa số học sinh chậm trong lớp rất nhanh quên cách đọc của những âm này nên trong các ôn tập tôi luôn cho học sinh đọc, ghép, viết nhiều giúp các em ghi nhớ tên âm. Trong từng tiết học, từng bài ôn, tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của các em thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ, Từ đó củng cố thêm kiến thức cho học sinh. Phần vần - Để học sinh học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen nhận diện phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững VD Khi dạy bài 31: an, ăn, ân. + Nhận diện vần: HS so sánh 3 vần nêu điểm giống nhau và khác nhau của 3 vần. + Hướng dẫn cách đánh vần: a-nờ- an, ă- nờ- ăn, â- nờ- ân. + Hướng dẫn đọc trơn vần: an, ăn, ân. Kết hợp với bộ đồ dùng tiếng việt cho học sinh tìm và ghép âm, vần thành tiếng mới trong mỗi bài học. Với cách phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài như thế nếu được sử dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kĩ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy âm vần đều có các từ, các câu thơ câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài Tôi nhận thấy cách sắp xếp như vậy ngoài các kiến thức cơ bản, hệ thống được học ở giáo viên, các em còn có thể hỗ trợ lẫn nhau trong học tập. Sự hỗ trợ giữa các học sinh giúp các em tự tin vào khả năng của bản thân và tự rút kinh nghiệm về cách học của chính mình. Ngoài ra tư thế ngồi đọc và cách cầm sách cũng rất quan trọng góp phần không nhỏ trong việc rèn luyện kĩ năng đọc đúng. Vì vậy tôi thường xuyên quan tâm uốn nắn tư thế ngồi đọc và cách cầm sách cho các em. 1.6 Giải pháp 6: Về nhận xét, đánh giá Trong mỗi hoạt động của tiết học, giáo viên thay đổi linh hoạt hình thức đánh giá: GV đánh giá học sinh; Học sinh đánh giá học sinh; Học sinh tự đánh giá, nhận xét về bài đọc mình vừa trình bày. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ có tác dụng các em thấy được những việc mình làm được, chưa làm được, những điều mình cần phải học tập bạn để phát huy và khắc phục. Không phê bình học sinh trước tập thể khi các em mắc phải những khuyết điểm như đọc còn sai, ngọng, Tôi đã hướng dẫn các em cách giúp bạn sửa sai. Tôi luôn đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh. Khuyến khích, động viên các em kịp thời trong hoạt động. Những em có khuyết điểm tôi trực tiếp trò chuyện và nhắc nhở, tư vấn giúp đỡ các em, giúp các em ngày càng mạnh dạn, tự tin. 1.7 Giải pháp 7: Phối hợp với gia đình giúp các em tiến bộ trong học tập Ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học, giáo viên cần chuẩn bị kĩ lưỡng nội để trao đổi với phụ huynh về Tiếng Việt 1 chương trình mới, để phụ huynh hiểu về chương trình Tiếng Việt 1 và ủng hộ, kết hợp cùng giáo viên. Chỉ ra cho phụ huynh nắm được các điểm mới trong chương trình Tiếng Việt 1.Thống nhất với phụ huynh cách dạy con ở nhà, cũng như các quy định chung của lớp. Động viên phụ huynh thường xuyên khuyến khích con tự học. Cần kiên nhẫn, không nóng giận và không tạo áp lực cho trẻ về thành tích. Lập nhóm zalo của lớp để trao đổi về kết quả học tập của học sinh. Cũng có thể sử dụng để giao bài tập về nhà hoặc giáo viên có thể dễ dàng gửi các SL % SL % 35 Tuần 10 26 74,3 9 25,7 35 Tuần 30 35 100 Sáng kiến này tuy không thể kiểm đếm được bằng tiền nhưng nó mang lại nhiều hiệu quả to lớn: + Đảm bảo thời gian của từng tiết học Tiếng Việt 1 theo đúng quy định. + Giúp học sinh bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe. + Đa số học sinh tích cực, mạnh dạn, tự tin trong học tập, biết hợp tác và chia sẻ. + 100% học sinh yêu thích môn học Tiếng Việt và các môn học khác. 2. Hiệu quả về nhận thức xã hội - Góp phần cải thiện điều kiện dạy học, nâng cao chất lượng đọc. Nhờ áp dụng giải pháp trên, cuối năm học tỷ lệ học sinh đọc đúng, hoàn thành nội dung học tập môn Tiếng Việt tăng rõ rệt. - Kết quả năm học 2021 – 2022, lớp tôi số HS hoàn thành tốt môn Tiếng Việt 20/35 em, đạt: 57,1%, số HS hoàn thành môn Tiếng Việt 15/35 em, đạt: 42,9%. - Số học sinh đạt giải tăng cao. + Cuộc thi Trạng nguyên Tiếng việt cấp Tỉnh đạt : 1 giải Ba. + Cuộc thi Trạng nguyên Toàn tài cấp Tỉnh đạt 1 Giải Nhì.- Mang ý nghĩa giáo dục lớn, giáo dục tình yêu Tiếng Việt, góp phần lôi cuốn lòng ham đọc sách ở học sinh. Khi áp dụng giải pháp mới, học sinh có ý thức học bài hơn, ham đọc sách, tìm tòi thêm những quyển sách hay để đọc. Học sinh của lớp hầu như lúc nào cũng mong chờ đến giờ Tập đọc để được tham gia đọc cùng các bạn, Đặc biệt, học sinh tích cực và mạnh dạn hơn trong việc thể hiện đọc trước bạn, trước lớp. IV. Điều kiện và khả năng áp dụng 1. Điều kiện áp dụng Trường Góp ý, xây 2 1975 TH Giáo viên ĐHSP dựng, tìm tư Ninh Thị Dần Đông Sơn liệu Tam Điệp, ngày 5 tháng 4 năm 2023 NGƯỜI NỘP ĐƠN (Tác giả sáng kiến ký, ghi rõ họ tên) Trương Thị Chinh
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_d.docx