Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai trong hoạt động viết cho học sinh Lớp 3, bộ sách Kết nối tri thức

Các giờ học Tiếng Việt ở Tiểu học, giáo viên vẫn giữ vai trò chủ đạo, học sinh thụ động thực hiện theo yêu cầu của giáo viên, học sinh ít có cơ hội thực hành theo nhịp độ của riêng mình.

Hoạt động viết trong trường Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các quy tắc viết, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng. Vì vậy, dạy học hoạt động viết có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện 4 yêu cầu cơ bản của môn Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết).

Dạy Hoạt động viết là một quá trình rèn luyện lâu dài, không chỉ ở giờ viết mà có thể rèn luyện phân tích từ các hoạt động như ( Đọc, nói và nghe, viết, luyện tập )

Ví dụ: Một học sinh làm một bài văn rất hay nhưng mắc nhiều lỗi viết thì bài văn đó không đạt điểm cao. Hay một học sinh viết sai nhiều lỗi viết thì không thể học tốt các môn học khác.

Chương trình GDPT 2018 chú trọng vào đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng phát huy tích cực học tập của học sinh, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Những yêu cầu cần đạt về năng lực và phẩm chất được thực hiện rất rõ nét trong quá trình vận dụng học thông qua chơi. Chính vì điều đó, áp dụng học làm sao sẽ giúp cho thầy và trò có được những tiết học sôi nổi, thú vị nhưng vẫn giúp học sinh đạt được mục tiêu bài học. Việc dạy như thế nào? sẽ giúp học sinh có cơ hội trải nghiệm, tương tác, vận dụng và từ đó bộc lộ phẩm chất, năng lực. Mỗi phân môn đều có mục đích, nhiệm vụ riêng của nó, song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kỹ năng (nghe, nói, đọc, viết) thông qua giao tiếp của học sinh. Riêng hoạt động Viết có vị trí đặc biệt quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn luyện và phát triển tiếng phổ thông cho học sinh trong đó có năng lực chữ viết.

Cho nên, việc nghiên cứu phương pháp giúp các em khắc phục được những lỗi viết là vô cùng quan trọng. Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Xuất phát từ những lí do chủ yếu trên đây, tôi đã mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai trong hoạt động viết cho học sinh lớp 3”.

docx 25 trang Thanh Ngân 02/10/2025 440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai trong hoạt động viết cho học sinh Lớp 3, bộ sách Kết nối tri thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai trong hoạt động viết cho học sinh Lớp 3, bộ sách Kết nối tri thức

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai trong hoạt động viết cho học sinh Lớp 3, bộ sách Kết nối tri thức
 2
tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện 
cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Xuất phát từ những lí do chủ yếu trên đây, tôi 
đã mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp khắc phục tình 
trạng viết sai trong hoạt động viết cho học sinh lớp 3”.
 2. Mục đích nghiên cứu:
 Các nguyên tắc viết không tách rời với dạy học Tiếng Việt thì họat động 
viết có tính chất công cụ, tính chất thực hành làm cơ sở cho việc dạy học các 
phân môn khác của Tiếng Việt. Cùng với hoạt động Đọc, hoạt động viết cung 
cấp kiến thức và hoàn thiện kĩ năng tạo ra hình thức vật chất biểu hiện ngôn ngữ 
trong hoạt động giao tiếp. Mục đích của hoạt động viết là rèn luyện khả năng 
“đọc thông, viết thạo” chủ yếu là viết đúng chuẩn mực và dạng thức viết của 
ngôn ngữ.
 3. Đối tượng nghiên cứu:
 “Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai trong hoạt động viết cho 
học sinh lớp 3”.
 4. Phạm vi nghiên cứu:
 Sáng kiến nghiên cứu về một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai 
trong hoạt động viết cho học sinh lớp 3A2, Trường tiểu học Chu Minh, huyện 
Ba Vì, thành phố Hà Nội.
 5. Thời gian nghiên cứu:
 1 năm, năm học 2022-20023
 PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 A. Thực trạng của vấn đề:
 I. Cơ sở lí luận:
 Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc 
viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở của viết đúng. Tuy nhiên do yếu 
tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi mỗi khác. Mặc dù những quy tắc, quy ước về 4
 - Mặc dù ở lớp cô giáo đã tập cho học sinh phát âm đúng song khi về nhà 
một số phụ huynh nói giọng từ ngữ địa phương nhiều, chưa chuẩn âm, vần, dấu 
thanh dẫn đến con cái cũng bị ảnh hưởng phát âm sai.
 III. Khảo sát thực trạng
 - Trong quá trình dạy hoạt động viết, giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm 
phương ngữ địa phương, không xác định rõ các lỗi viết cơ bản của học sinh 
trong lớp nên việc rèn viết không đi vào trọng điểm. Giáo viên ít củng cố và 
khắc sâu cho học sinh nắm các quy tắc, mẹo luật qua bài viết hoặc qua bài tập. 
Hơn nữa việc phát âm của một bộ phận giáo viên chưa được chuẩn dẫn đến hạn 
chế về đọc và viết đúng của học sinh.
 Trong năm học 2022- 2023 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A2, Tôi 
tiến hành khảo sát chất lượng viết đầu năm của học sinh: 
 Tổng số 
 Xếp loại
 HS
 Loại A Loại B Loại C
 35 SL TL SL TL SL TL
 10 28,6 % 18 51,4% 7 20,0%
 IV. Đề xuất giải pháp: 
 Kết quả khảo sát trên cho thấy: Tỉ lệ chữ viết của học sinh đạt loại A còn 
thấp, tỉ lệ đạt loại B, C còn cao chưa đáp ứng chỉ tiêu đề ra của nhà trường và 
của lớp. Đứng trước thực trạng đó, tôi thực sự băn khoăn, trăn trở làm thế nào 
để khắc phục tình trạng viết sai cho học sinh. Vì vậy, tôi đã vận dụng các biện 
pháp sau đây vào quá trình dạy học hoạt động viết ở lớp 3A2 như sau:
 * Biện pháp thứ nhất: Rèn nề nếp tư thế cho học sinh khi ngồi viết.
 * Biện pháp thứ hai: Luyện phát âm.
 * Biện pháp thứ ba: Phân tích so sánh.
 * Biện pháp thứ tư: Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ.
 * Biện pháp thứ năm: Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật viết đúng. 6
các em sẽ có ý thức viết đẹp hơn, trình bầy khoa học và một điều quan trọng hơn 
là sẽ hạn chế tới mức thấp nhất việc viết sai.
 II. Biện pháp thứ hai: Luyện phát âm.
 Hầu hết các em tiếp xúc với xã hội còn rất ít, nói tiếng phổ thông chưa 
thành thạo khi đọc bài còn sai. Vì vậy việc tái hiện con chữ khi giáo viên đọc để 
viết lại còn rất chậm và không chính xác. Đặc biệt các em còn nhầm lẫn giữa 
các âm: nh/ d hay gi; t/ th; l/đ; v/b. Một số em không phân biệt được các phụ âm 
đầu mà khi đọc các phụ âm đó gần giống nhau.
 Ví dụ: ch/ tr; x/ s; d/ r hay gi; t/ th; ng/ ngh; k/ c hay q. Bên cạnh đó cũng 
còn rất nhiều em thường viết chưa đúng phần vần khi viết còn nhầm lẫn.
 Ví dụ: ai/ ay; iu/ ưu; anh/ ach; ênh/ êch; inh/ ich; iên/ uyên; ươn/ 
ương;Từ việc không xác định được và còn nhầm lẫn giữa các phụ âm đầu và 
phần vần, do đó dẫn đến học sinh viết sai thường xuyên phải sửa cho các em.
 Vậy nên muốn học sinh viết đúng, trước hết giáo viên phải chú ý luyện 
phát âm cho mình và cho học sinh để phân biệt các dấu thanh, các âm đầu, âm 
chính, âm cuối vì chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống 
nhất với nhau. Nếu giáo viên chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng của cách phát 
âm ở địa phương thì các em cũng có thói quen phát âm sai dẫn đến hiện tượng 
viết sai. 
 III. Biện pháp thứ ba: Phân tích so sánh.
 So sánh là làm rõ sự khác biệt lỗi phụ âm đầu. Giúp các em phát hiện ra lỗi 
sai để kịp thời giúp học sinh khắc phục.
 Trước hết cần phân ra từng nhóm đối tượng học sinh, nhóm nào thường 
mắc những lỗi nào thì tìm ra phương pháp khắc phục cho học sinh sửa lỗi đó. 
Khi viết những từ có liên quan đến những lỗi mà nhóm học sinh hay mắc phải, 
cần gọi những em đó lên viết trên bảng lớp, viết thường xuyên. Có như vậy, các 
em mới phát hiện ra lỗi sai để kịp thời giúp học sinh khắc phục.
 Song song với việc luyện phát âm cho học sinh, khâu phân tích so sánh 
tiếng, từ cũng rất quan trọng trong giờ học hoạt động viết: với những tiếng khó, 8
 Học sinh viết:  chúng tôi ra về trong tiếc nuối. (viết sai “tiếc” thành “ 
tiết”)
 Giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của từ: Cần hiểu “tiếc” có nghĩa là là 
một phản ứng cảm xúc tiêu cực có ý thức đối với một tình huống không mong 
muốn, còn “tiết” là tiết kiệm. Vì vậy các em phải viết là “tiếc nuối”.
 Ví dụ 2: Nghe - viết: Lời giải toán đặc biệt (Bài 11 trang 53 Tiếng Việt 
3 Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống tập 1)
 Nội dung viết: Đáp số đúng rồi! Chợt thầy reo lên: 
 Học sinh mắc lỗi viết “gieo”. Giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa: “reo” là 
để bày tỏ sự vui mừng, phấn khởi còn “gieo” là ươm mầm giống cây xuống đất 
để nó phát triển (gieo mầm, gieo hạt).
 Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết hoạt động đọc, luyện 
tập, nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết hoạt động viết khi mà học 
sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng. Có 
nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh. Giáo viên chú giải từ mới ở hoạt động 
đọc kết hợp đặt câu. Nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ; 
tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, 
tranh ảnh,  Với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh 
cụ thể để giải nghĩa từ.
 V. Biện pháp thứ năm: Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật viết đúng. 10
 Trừ ngoại lệ: xưởng; cái xe; cái xuồng; cây xoan; cây xoài; trạm xá; mùa 
xuân.
 Để nhớ được ngoại lệ này tôi đưa ra cho học sinh một câu ngộ nghĩnh dễ 
nhớ như: " Mùa xuân đi xuồng gỗ xoan, mang xoài đến xã đổi xẻng ở xưởng để 
đem cho trạm xá."
 Tên các thức ăn thường đi với x như: xôi; xốt vang; xúc xích; xà lách...
 Phụ âm đầu x thường đi với vần có âm đệm như vần oa; oac; oach; oai; 
oam; oan; oang; oay; oăn; oe; oen; oet...
 Ví dụ: xoa bóp; xoạc chân; loảng xoảng, lốc xoáy, loẹt xoẹt...
 + Để phân biệt r/d/gi:
 r và gi không kết hợp với âm đệm (trừ ngoại lệ "cu roa ")
 d thường đi với vần có âm đệm như oa; oe; uê; uy... Như: dọa dẫm; hậu 
duệ; kinh doanh, duy nhất...
 Lớp bì bọc ngoài cơ thể động vật; thực vật ghi là d
 Ví dụ: màu da; da thịt; da cam...
 Viết gi với nghĩa thêm vào
 Ví dụ: gia hạn; gia vị...
 + Để phân biệt tr/ch:
 - Những từ chỉ quan hệ gia đình thường viết là ch
 Ví dụ : chú; cha; cháu; chị...
 - Những từ chỉ đồ dùng trong gia đình viết là ch
 Ví dụ: chậu; chén; chổi; chiếu...
 Từ việc giúp các em phát âm đúng và cung cấp cho các em một số "mẹo" 
viết, tôi còn cung cấp cho các em một số quy định về viết chuẩn như cách viết 
tên riêng Việt Nam và tên riêng nước ngoài:
 + Tên người: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết
 Ví dụ: Trần Hưng Đạo; Nguyễn Thị Minh Khai...
 + Tên dân tộc: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết
 Ví dụ: Kinh; Tày; Mường; Sán Dìu... 12
 Chị Huyền mang Nặng Ngã đau
 Anh Ngang, Sắc thuốc Hỏi đau chỗ nào.
 Nghĩa là: Thanh Huyền, Nặng, Ngã kết hợp với dấu Ngã.
 Thanh Ngang, Sắc, Hỏi kết hợp với dấu Hỏi.
 Ví dụ: Âm trầm
 + Huyền – Ngã: vững vàng, vẽ vời, vồn vã, lững lờ, sẵn sàng, 
 + Nặng – Ngã: đẹp đẽ, nhẹ nhõm, mạnh mẽ, lạnh lẽo, vội vã, 
 + Ngã – Ngã: dễ dãi, lẽo đẽo, nhõng nhẽo, mũm mĩm, nghễnh ngãng, 
 + Ngang – Hỏi: vui vẻ, nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, 
 + Sắc – Hỏi: vắng vẻ, mát mẻ, nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vất vả, 
 + Hỏi – Hỏi: hổn hển, lỏng lẻo, thỏ thẻ, thủ thỉ, rủ rỉ, 
 Cũng có thể cung cấp thêm cho học sinh mẹo luật sau: Từ có âm đầu 
là M, N, Nh, V, L, D, Ng thì viết là dấu ngã (Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã).
 Ví dụ: M: mĩ mãn, mã lực, từ mẫu, cần mẫn, 
 N: nỗ lực, trí não, truy nã, nữ giới, 
 Nh: nhẫn nại, nhẵn bóng, quấy nhiễu, nhõng nhẽo, 
 V: vĩnh viễn, vỗ về, vũ trang, võ nghệ, vũ trụ, 
 L: lễ phép, lữ hành, kết liễu, thành lũy, lạnh lẽo, 
 D: dã man, dã tràng, dũng cảm, dỗ dành, hướng dẫn, diễm lệ, 
 Ng: ngưỡng mộ, hàng ngũ, ngữ nghĩa, ngôn ngữ, ngỡ ngàng, ngã (té), 
 VI. Biện pháp thứ sáu: Giúp học sinh viết và làm đúng qua các bài tập.
 Các dạng bài tập ở hoạt động viết thường gặp ở lớp 3 là các dạng bài: Bài 
tập điền vào chỗ trống (Bài tập điền khuyết), bài tập tìm từ, bài tập tìm tiếng, bài 
tập giải câu đố, bài tập lựa chọn và một số dạng bài tập đặt câu (Bài tập phân 
biệt hai từ trong từng cặp từ).
 Mỗi bài viết giáo viên cần luyện học sinh phát âm từ khó, phân tích, so sánh 
tiếng, từ khó, giải nghĩa từ, ghi nhớ mẹo luật viết đúng. Ngoài nhiệm vụ trên giáo 
viên còn hướng dẫn học sinh làm các bài tập khác nhau để giúp học sinh tận dụng 14
 6.2. Bài tập tìm từ:
 Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý 
từ hình ảnh:
 Ví dụ: * Bài tập 2 (Bài 9 trang 45 Tiếng Việt 3 Bộ sách Kết nối tri thức với 
cuộc sống tập 1). 
 Giáo viên chia nhóm, tổ chức thành trò chơi cho học sinh thi đua nhau 
 tạo hứng thú học tập. 
6.3. Bài tập tìm tiếng:
 Ví dụ : Bài tập 2 (Bài 11 trang 53 Tiếng Việt 3 Bộ sách Kết nối tri thức 
 với cuộc sống tập 1) 16
 Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại 
bỏ cái sai. Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những qui tắc viết, hướng dẫn 
học sinh thực hành, luyện tập nhằm hình thành kĩ năng viết đúng, cần đưa ra 
những trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó 
hướng học sinh đi đến cái đúng.
 6.5. Bài tập lựa chọn:
 Bài tập 2 (Bài 19 trang 92 Tiếng Việt 3 Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống) 18
 dìu dắt dìu biếc 
 mải miết mãi mãi 
 Đáp án: Điền Đ vào ô trống trước từ: Dìu dắt, mải miết, mổ xẻ, mãi mãi
 Điền S vào các ô trống trước từ: chim xẻ, dìu biếc 
6.8. Bài tập nối tiếng:
 Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành từ ngữ viết 
 đúng:
 A B
 a. mong tròn (1)
 b. rau khổ (2)
 c. cuộn muốn (3)
 d. khuôn cau (4)
 e. buồng muống (5)
 Đáp án: a - 3 ; b - 5 ; c - 1; d - 2 ; e - 4 
 6.9. Bài tập phát hiện:
 Tìm từ sai trong các câu sau và sửa lại cho đúng:
 a) Dẫu các cháu không dúp gì được, nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn.
 b) Một ngôi xao chẳng sáng đêm.
 c) Chỉ có vần trăng vẫn thao thức như canh gát trong đêm.
 d) Anh cảm thấy dễ chiệu và đầu óc bớt căng thẳng.
 e) Hôm đó, ông lão đang ngồi sưỡi lửa thì con đem tiền về.
 Đáp án: Các từ viết sai trong các câu trên là: dúp, xao, gát, chiệu, sưỡi, 
 VII. Biện pháp thứ bảy: Tổ chức dạy học tiết hoạt động viết ở lớp .
 Giúp học sinh thực hiện tốt yêu cầu của tiết hoạt động viết. Để khắc 
 phục lỗi viết và nâng cao chất lượng chữ viết của học sinh. Nắm vững cơ sở 
 ngữ âm, ngữ nghĩa của Tiếng Việt. Có hiểu biết đầy đủ về khả năng kết hợp 
 của các thành phần trong âm tiết Tiếng Việt
 * Chuẩn bị và nghe viết:
 - Cho học sinh đọc bài sẽ viết (SGK), nắm nội dung chính của bài viết. 20
 Giáo viên phải nắm vững quy tắc viết đúng, thuật ngữ khi viết, thuật nhớ 
và mẹo viết. Nắm vững cơ sở ngữ âm, ngữ nghĩa của Tiếng Việt. Có hiểu biết 
đầy đủ về khả năng kết hợp của các thành phần trong âm tiết Tiếng Việt. Mặt 
khác phải quán triệt nguyên tắc nói viết tại địa phương. Để giúp học sinh viết 
đúng, người giáo viên phải rèn chữ viết thường xuyên, viết chữ đúng mẫu, 
chuẩn, đẹp. Phải gương mẫu về chữ viết trên bảng, chữ viết nhận xét, chữa lỗi 
trong vở học sinh. Đặc biệt phải quan tâm độ cao, kích thước của từng con chữ, 
khoảng cách giữa các con chữ, các tiếng phải đều, đúng quy định, cách trình bày 
bài phải khoa học. 
 Trong mỗi bài viết hay bài tập, sau khi viết hay làm bài tập xong các em 
đều được chấm và chữa bài, nhiều giáo viên thu tất cả vở học sinh để tự mình 
chấm (ở lớp hay ở nhà). Như vậy giáo viên đã bỏ qua bước cho học sinh tự 
chữa lỗi trong bài viết hay bài tập của mình hoặc của bạn (hình thức đổi vở cho 
nhau để chữa bài). Bằng cách này giáo viên chỉ có một điểm thuận lợi là giảm 
bớt thời gian trong tiết học, nhưng mặt khác học sinh không được một lần nữa 
tiếp xúc với bài viết, bài tập vừa được viết, được làm, không tự phát hiện ra lỗi 
sai dưới sự hướng dẫn, sửa chữa của giáo viên. Do đó cần để cho học sinh phát 
huy tính tích cực, sáng tạo của bản thân các em bằng cách tự chữa bài viết,bài 
tập của mình cũng như của bạn.
 Đối với các em học sinh lớp 3A2 trường tiểu học Chu Minh, ngay từ đầu 
năm học 2022 – 2023 bản thân tôi đã vận dụng tối đa tính tích cực, sáng tạo của 
học sinh trong việc chấm, chữa bài nhằm phát triển tư duy, sự nhận thức của các 
em để các em tự nhận biết mình đã sai, nhầm lẫn như thế nào? Rồi qua đó các 
em sẽ hiểu rằng mình cần phải ghi nhớ để không lặp lại những lỗi đó nữa. Trong 
thời gian thực nghiệm đối với học sinh lớp 3A2, tôi đã vận dụng để phát huy 
tính tích cực, sáng tạo của học sinh khi chấm, chữa bài. Cụ thể bằng hai cách:
 * Cách thứ nhất: Sau khi viết cũng như làm bài tập xong yêu cầu học sinh 
đọc lại bài và tự soát lỗi, chữa bài bằng cách dùng bút chì gạch chân những lỗi 
mà mình viết sai, làm sai sau đó ghi lại chỗ sửa lỗi. Giáo viên khuyến khích học 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_khac_phuc_tinh_trang.docx