Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách giáo khoa
Thực tiễn cho thấy: Việc hướng dẫn học sinh (HS) tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình (chương trình năm 2006 quy định cụ thể về văn bản được giảng dạy, trong một bộ sách giáo khoa duy nhất và thống nhất trên toàn quốc) hầu như không được quan tâm. Đến năm học 2023-2024, khi chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 đã được triển khai đến lớp 11 ở cấp THPT, thì việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài các bộ sách giáo khoa (SGK) hiện hành vẫn là một mục tiêu xa vời với đa số GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này như sau:
- Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2006 chú trọng bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng môn học; chỉ có một bộ SGK duy nhất trên phạm vi cả nước. Do đó đa số GV xem SGK là “pháp lệnh”, nội dung SGK được coi là nguồn kiến thức duy nhất để dạy học và kiểm tra, đánh giá. Áp lực thi cử, bệnh thành tích trong giáo dục tạo nên thói quen tập trung vào mục tiêu tìm hiểu các văn bản trong SGK với cả người dạy và người học.
- Thực tiễn thi cử môn Ngữ văn trong hầu hết các kì thi như: Tuyển sinh vào lớp 10, Tốt nghiệp THPT; học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, cấp quốc gia… đều lấy ngữ liệu ra đề phần nghị luận văn học là văn bản/ tác phẩm trong SGK. Với một số kì thi học sinh giỏi (HSG), nếu có yêu cầu trải nghiệm thì cơ bản vẫn cho HS lựa chọn và phân tích một hoặc một số tác phẩm trong chương trình Ngữ văn của lớp học, cấp học phù hợp. Điều này tạo nên tâm lý thực dụng với cả đội ngũ làm công tác quản lý và giảng dạy ở môn Ngữ văn trong các nhà trường phổ thông. Việc tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK vì thế không trở thành mục tiêu dạy và học của GV, HS.
- Ở một số GV say mê nghề nghiệp, có vốn hiểu biết phong phú và quan điểm giáo dục hiện đại có xu hướng giới thiệu, mở mang tri thức về các văn bản ngoài SGK cho HS trong các giờ dạy của mình. Song việc làm này cơ bản chỉ là một thao tác so sánh, liên hệ; một hoạt động mở rộng hoặc “trữ tình ngoại đề” trong giờ học. Hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài SGK không được xác định trong nhóm các mục tiêu của bài học; phương pháp chủ yếu là truyền thụ một chiều; nội dung phần nhiều phụ thuộc vào vốn hiểu biết của GV và mang tính tự phát, ngẫu hứng. Do đó, tác dụng của hoạt động này không cao, chỉ gây được hứng thú tức thì cho HS mà không trở thành động lực, không hình thành kĩ năng cho HS.
- Thói quen học tập thụ động, lệ thuộc vào lời giảng của GV, lệ thuộc vào văn mẫu của nhiều HS cũng dẫn đến hiện tượng: Các em không tự tin và không có nhu cầu tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản ngoài SGK. Tâm lý thờ ơ, thực dụng này cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc GV không có động cơ nghiên cứu, tìm hiểu các biện pháp để hướng dẫn HS cách khai thác, vận dụng kiến thức từ các văn bản ngoài SGK.
Với các nguyên nhân và biểu hiện như trên, có thể thấy: Việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài SGK hiện chưa được quan tâm; nếu có thực hiện thì mang tính tự phát, chỉ là một thao tác nhỏ trong giờ dạy của số ít GV, mang tính áp đặt, không hướng tới mục tiêu phát triển năng lực (NL) cho người học…
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản ngoài chương trình, sách giáo khoa

MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Tên sáng kiến 1 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 1 3. Các thông tin cần bảo mật 1 4. Mô tả giải pháp cũ thường làm 1 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến 4 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến 6 7. Nội dung 6 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến 6 7.1.1. Định hướng, sàng lọc văn bản ngoài chương trình, SGK phù hợp 7 7.1.2. Hướng dẫn HS cách thức tìm hiểu văn bản ngoài chương trình theo đặc 13 trưng thể loại 7.1.3. Hướng dẫn HS tìm kiếm, khai thác tư liệu phục vụ việc tìm hiểu văn bản 25 ngoài chương trình 7.1.4. Đa dạng hóa các hình thức tổ chức báo cáo và đánh giá sản phẩm tự 29 nghiên cứu của HS 7.1.5. Hướng dẫn HS vận dụng tri thức về các văn bản ngoài chương trình, 30 SGK vào thực tiễn học tập và thi cử 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến 32 7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến 33 ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT CỦA NHÀ TRƯỜNG 37 PHỤ LỤC 38-85 2 - Ở một số GV say mê nghề nghiệp, có vốn hiểu biết phong phú và quan điểm giáo dục hiện đại có xu hướng giới thiệu, mở mang tri thức về các văn bản ngoài SGK cho HS trong các giờ dạy của mình. Song việc làm này cơ bản chỉ là một thao tác so sánh, liên hệ; một hoạt động mở rộng hoặc “trữ tình ngoại đề” trong giờ học. Hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài SGK không được xác định trong nhóm các mục tiêu của bài học; phương pháp chủ yếu là truyền thụ một chiều; nội dung phần nhiều phụ thuộc vào vốn hiểu biết của GV và mang tính tự phát, ngẫu hứng. Do đó, tác dụng của hoạt động này không cao, chỉ gây được hứng thú tức thì cho HS mà không trở thành động lực, không hình thành kĩ năng cho HS. - Thói quen học tập thụ động, lệ thuộc vào lời giảng của GV, lệ thuộc vào văn mẫu của nhiều HS cũng dẫn đến hiện tượng: Các em không tự tin và không có nhu cầu tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các văn bản ngoài SGK. Tâm lý thờ ơ, thực dụng này cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc GV không có động cơ nghiên cứu, tìm hiểu các biện pháp để hướng dẫn HS cách khai thác, vận dụng kiến thức từ các văn bản ngoài SGK. Với các nguyên nhân và biểu hiện như trên, có thể thấy: Việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài SGK hiện chưa được quan tâm; nếu có thực hiện thì mang tính tự phát, chỉ là một thao tác nhỏ trong giờ dạy của số ít GV, mang tính áp đặt, không hướng tới mục tiêu phát triển năng lực (NL) cho người học 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến - Thứ nhất: Việc đổi mới chương trình, SGK ở bộ môn Ngữ văn đã và đang được thực hiện. Đến năm học 2023-2024, việc đổi mới chương trình, SGK đã được thực hiện với cấp THPT, ở khối lớp 11. Theo đó: nếu chương trình Ngữ văn trước đây được xây dựng theo trục lịch sử và thể loại văn học, thì chương trình Ngữ văn 2018 lấy các kĩ năng giao tiếp như đọc- viết- nói- nghe làm trục chính, xuyên suốt các cấp học, lớp học. Trong số các kĩ năng đó, thì kĩ năng đọc đóng vai trò vô cùng quan trọng. Mục tiêu phát triển NL đọc ở cấp THPT của CT Ngữ Văn 2018 là giúp HS biết đọc hiểu các kiểu loại văn bản dựa trên những kiến thức, trải nghiệm, khả năng suy luận, tư duy độc lập của bản thân. Qua các ngữ liệu chọn lọc, HS đọc và lĩnh hội được những hiểu biết cơ bản, có khả năng tìm tòi khám phá để củng cố, mở rộng vốn sống và tri thức văn hóa. - Thứ hai: Sự khác biệt lớn giữa Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và Chương trình giáo dục phổ thông 2006 ở môn Ngữ văn là ngữ liệu dạy học. Thay vì chỉ có một bộ SGK duy nhất như chương trình 2006, thì để thực hiện chương trình môn học hiện nay có 4 các tác phẩm ngoài SGK chính là khâu then chốt để GV bồi dưỡng đội tuyển rèn luyện cho HS, nhằm tạo điểm nhấn và độ linh hoạt, bao phủ rộng cho bài viết của các em. Bên cạnh đó, việc hình thành kĩ năng đọc tác phẩm ngoài SGK còn là con đường rèn luyện NL tư duy sáng tạo hiệu quả cho HSG. Các em sẽ có cơ hội làm giàu vốn sống, có khả năng bao quát các hiện tượng văn học, đánh giá được các hiện tượng văn học ấy trên cơ sở so sánh, tổng hợp phong phú Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn và kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng đọc - viết, vận dụng tri thức từ các tác phẩm văn học ngoài chương trình, SGK cho HS; chúng tôi xây dựng thành sáng kiến này với mong muốn đóng góp cho ngành giáo dục, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Ngữ văn. Đây cũng là quá trình nghiên cứu để phục vụ trực tiếp cho hoạt động giảng dạy thực tiễn của chúng tôi tại trường THPT Chuyên Bắc Giang. 6. Mục đích của giải pháp sáng kiến Thực hiện giải pháp, chúng tôi hướng đến các mục tiêu: - Đề xuất các biện pháp hướng dẫn HS tìm hiểu văn bản ngoài SGK. - Quy trình hóa các thao tác thực hiện từng biện pháp để phổ biến kinh nghiệm cho các đồng nghiệp cùng thực hiện. - Thực nghiệm, phân tích số liệu để đưa ra đánh giá về tính hiệu quả, khả thi của giải pháp. - Giới thiệu một số sản phẩm học tập của HS liên quan đến vấn đề được trình bày trong sáng kiến; là nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho GV và HS. Giải pháp giúp HS tạo được môi trường, động lực để phát triển NL tự học, chủ động khai thác thông tin, nâng cao hứng thú và chất lượng học tập môn Ngữ văn. Đồng thời giải pháp cũng giúp cho GV giảng dạy bộ môn Ngữ văn có định hướng trong việc hướng dẫn HS tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK một cách hiệu quả; qua đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của chương trình giáo dục phổ thông 2018. 7. Nội dung 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến Giải pháp chúng tôi đưa ra là những giải pháp mới nhằm đa dạng hóa các biện pháp hướng dẫn HS thực hiện hiệu quả việc tìm hiểu, khám phá các văn bản ngoài chương trình, ngoài các bộ SGK Ngữ văn cấp THPT. 6 giúp HS có cơ hội rèn kĩ năng khi đọc các văn bản tương tự; cũng là căn cứ để các văn bản được lựa chọn tập trung, không gây cảm giác quá tải, bề bộn với người học. (2) Tính chính xác, khoa học về nội dung và hình thức. Văn bản được lựa chọn cần đảm bảo rõ ràng về nguồn dẫn, không trích dẫn sai lệnh về nội dung, không cẩu thả trong khâu in ấn, trình bày... Đảm bảo thể hiện đúng ý tưởng của tác giả, không vi phạm về vấn đề bản quyền, tác quyền. (3) Văn bản được lựa chọn cần đảm bảo tính thẩm mỹ, tính giáo dục cao cả về tư tưởng cho người học. Đó là các văn bản phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; không vi phạm đạo đức, pháp luật; không có các yếu tố nhạy cảm về chính trị, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc... (4) Tính phù hợp: Văn bản được lựa chọn cần đảm bảo phù hợp với mức độ nhận thức, tầm đón nhận của HS ở cấp THPT. - Bước 2. Khuyến khích HS lựa chọn, giới thiệu các văn bản ngoài chương trình, ngoài SGK phù hợp với các tiêu chí đã xác định (ở bước 1) Ở mỗi giai đoạn học tập, bám sát chương trình môn học từng lớp; GV khuyến khích HS lựa chọn và giới thiệu các văn bản phù hợp với tiêu chí đã sàng lọc. Việc làm này sẽ tạo cho HS sự hào hứng, nâng cao ý thức trách nhiệm của HS với việc học tập. Có thể sử dụng các ứng dụng như padlet, google form hoặc khảo sát ý kiến trên nhóm Zalo, Messenger để thu thập thông tin về các văn bản mà HS mong muốn được tìm hiểu. Với HS có những hạn chế nhất định về nhận thức hoặc ít hứng thú với hoạt động tìm hiểu các văn bản ngoài chương trình, SGK thì GV chủ động giới thiệu một số văn bản tiêu biểu ở các giai đoạn, thời kì văn học, khuynh hướng sáng tác để các em có định hướng khi lựa chọn văn bản. Dưới đây là một số minh chứng cho thao tác mà nhóm tác giả đã thực hiện: - Tập hợp các văn bản thơ ngoài SGK theo đề xuất của HS: https://s.net.vn/gNrj - Hình ảnh trang Padlet khảo sát ý kiến của HS về truyện ngắn ngoài SGK: 8 hiểu của HS. Sau khi hệ thống, sàng lọc các văn bản; GV và HS cùng thực hiện việc sưu tầm, đóng góp vào ngân hàng văn bản ngoài chương trình, ngoài các bộ SGK. Có thể lưu tại nhóm học tập riêng của lớp, hoặc mã hóa thành mã QR gửi tới HS để các em chủ động đọc và tìm hiểu văn bản theo định hướng của GV (sẽ được trình bày ở các biện pháp sau). * Kết quả thực hiện giải pháp Nhóm tác giả sáng kiến đã xây dựng bảng tiêu chí lựa chọn, sàng lọc các văn bản ngoài chương trình, SGK và chuyển giao cho các lớp, phổ biến tới từng HS mà nhóm tác giả giảng dạy trong năm học 2023-2024. Từ đó giúp HS các lớp chủ động và có kĩ năng trong việc lựa chọn các văn bản ngoài chương trình để tìm hiểu. Các em có khả năng nhận diện, loại trừ những văn bản không phù hợp (vi phạm các tiêu chí đã xác định như: thiếu tính thẩm mỹ, thiếu tính giáo dục, vượt quá tầm nhận thức của HS THPT hoặc có vấn đề về vấn đề bản quyền) Trong thời gian triển khai giải pháp, chúng tôi đã tổ chức được 4 buổi thảo luận tại các lớp: Văn K32, Trung K32, Anh K32, Pháp K32 (trường THPT Chuyên Bắc Giang) để rà soát, định hướng, tập hợp thành ngân hàng văn bản ngoài chương trình phù hợp với mục tiêu dạy học. Dưới đây là một số hình ảnh về các buổi thảo luận mà chúng tôi đã tổ chức tại các lớp trong thời gian thực hiện giải pháp. Ảnh 1. HS lớp 11 chuyên Văn thảo luận về các văn bản ngoài chương trình. 10 12 học sinh khám phá văn bản theo đặc trưng thể loại. Với tư cách là môn học công cụ, môn Ngữ văn phải hướng tới mục tiêu hình thành cho HS phương pháp đọc hiểu các kiểu, loại văn bản, nhất là các văn bản nghị luận, văn bản thông tin. Khi đã nắm được đặc trưng riêng của từng kiểu, loại văn bản, thì người học có thể dễ dàng tiếp nhận được các văn bản cùng thể loại ở ngoài chương trình, SGK. * Các bước tiến hành giải pháp Bước 1. Nhận diện đặc điểm kiểu loại, thể loại văn bản - Văn bản văn học Thể loại - hình thức chỉnh thể của tác phẩm văn học Khái niệm - Trong mỗi thể loại có sự thống nhất, quy định lẫn nhau giữa các yếu tố đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng và hình thức nhân vật, hình thức kết cấu, hình thức lời văn. - Nói đến thể loại là nói đến: + Một nguyên tắc tổ chức tác phẩm. + Một phương thức thể hiện thực tại. + Một loại hình giao tiếp thẩm mỹ. Nguyên - Với tư cách là một phương thức thể hiện thực tại, mỗi thể loại là kết quả nhân của một phương thức chiếm lĩnh thực tại khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mỹ khác nhau, mang những khả năng khác nhau trong việc biểu hiện thực tại. - Với tư cách là một loại hình giao tiếp thẩm mỹ, mỗi thể loại văn học là một kênh giao tiếp riêng với bạn đọc, đòi hỏi ngôn ngữ riêng, nguyên tắc riêng, phương thức và kinh nghiệm riêng. Biểu hiện - Sự lặp đi lặp lại có quy luật các yếu tố của tác phẩm (tiêu chí phân loại) - Sự độc đáo trong việc vận dụng thể loại của tác giả. Tính chất của thể loại Tính thời đại, lịch sử Biểu hiện Ví dụ - Sự hình thành và phát triển thể loại văn học cũng là sự Sự phát triển của lịch sử hình thành và phát triển của văn học qua các giai đoạn. văn học Trung quốc là sự tiếp nối của các thể loại. 14
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_dan_hoc_sinh_ti.pdf