Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh Lớp 5

Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Ngành giáo dục đã và đang không ngừng đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI:

“Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình’’. Mục tiêu giáo dục đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh.

Giáo dục ở bậc Tiểu học là nền móng ban đầu, góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện. Môn Toán là một trong những môn học nhằm giúp học sinh nâng cao trí tuệ.

Lớp 5 là lớp cuối cùng của bậc Tiểu học. Sau khi học xong lớp 5, các em cần phải nắm chắc các kiến thức cơ bản về số tự nhiên, số thập phân, hỗn số, hình học, các dạng toán cơ bản …. Bên cạnh đó, các em còn phải biết vận dụng các kiến thức đã học vào trong thực tế của cuộc sống. Nếu học tốt môn Toán thì các em sẽ không gặp khó khăn trở ngại khi học các môn học khác. Chương trình toán lớp 5 được phân phối mỗi tuần học 5 tiết. Mỗi một tiết học toán thường gồm bài học và phần thực hành. Phần bài học chủ yếu nêu các tình huống được mô tả bằng hình vẽ hoặc mô hình giúp học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng mới. Phần thực hành là các bài tập củng cố, được sắp xếp từ dễ đến khó.

Mỗi bài toán, các em tự tìm ra đáp số dựa vào kiến thức, kĩ năng mà các em được lĩnh hội qua các bài học. Qua đó các em khám phá thế giới bí ẩn của toán học đồng thời rèn luyện bộ óc thông minh, sáng tạo của bản thân.

Quá trình dạy học gồm hai hoạt động đó chính là hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Hoạt động học của học sinh chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ đúng đắn. Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động dạy của giáo viên. Trong quá trình dạy học điểm tập trung là người học chứ không phải là người dạy, tức là hoạt động dạy cần dựa trên nhu cầu hứng thú, thói quen và năng lực của người học. Mục đích cần đạt là để các em phát triển trên nhiều mặt chứ không nhằm vào một lĩnh vực kiến thức mà cần coi trọng việc hình thành phát triển kĩ năng tự học cho học sinh.

Việc lựa chọn các phương pháp giải giải toán giúp các em tự tìm tòi cách giải quyết đúng nhất và hợp lí nhất. Từ đó các em tự rèn luyện đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận đồng thời rèn luyện tính chính xác, chu đáo.

Bởi vậy, thông qua môn toán, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên, tất cả các em được hoạt động tự giải quyết nhiệm vụ của bài để chiếm lĩnh kiến thức mới đồng thời thiết lập được mối quan hệ giữa kiến thức mới và cũ. Các em biết vận dụng các kiến thức mới trong sự đa dạng và phong phú của các bài tập thực hành, luyện tập.

Đổi mới phương pháp dạy và học là một vấn đề then chốt trong chiến lược giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới phương pháp dạy học thực chất không phải là sự thay thế các phương pháp cũ bằng một loạt phương pháp mới. Bản chất của đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới cách tiến hành các phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là dạy học trên cơ sở tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, tác động đến tư tưởng, tình cảm của các em, đồng thời đem lại niềm vui hứng thú học tập của học sinh.

Vì những lí do trên đòi hỏi mỗi học sinh cần phải ra sức học tập và rèn luyện môn Toán để đem lại hiệu quả cao nhất. Không những các em học giỏi môn Toán mà còn giúp các em học tốt các môn học khác, là cơ sở để các em tiếp tục học tốt ở các lớp trên. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh lớp 5”

doc 27 trang Thanh Ngân 10/06/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh Lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh Lớp 5
 ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ
 TRƯỜNG TIỂU HỌC KHÁNH THƯỢNG
 --------
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
 DẠY HỌC TOÁN CHO HỌC SINH LỚP 5
 Lĩnh vực/Môn: Toán
 Cấp học: Tiểu học
 Năm học : 2021 - 2022 PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài
 Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ, đáp ứng nguồn nhân 
lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu 
hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Ngành giáo dục đã và 
đang không ngừng đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI: 
 “Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình’’. Mục 
tiêu giáo dục đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang 
trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh.
 Giáo dục ở bậc Tiểu học là nền móng ban đầu, góp phần đào tạo con người 
phát triển toàn diện. Môn Toán là một trong những môn học nhằm giúp học sinh 
nâng cao trí tuệ.
 Lớp 5 là lớp cuối cùng của bậc Tiểu học. Sau khi học xong lớp 5, các em 
cần phải nắm chắc các kiến thức cơ bản về số tự nhiên, số thập phân, hỗn số, 
hình học, các dạng toán cơ bản . Bên cạnh đó, các em còn phải biết vận dụng 
các kiến thức đã học vào trong thực tế của cuộc sống. Nếu học tốt môn Toán thì 
các em sẽ không gặp khó khăn trở ngại khi học các môn học khác. Chương trình 
toán lớp 5 được phân phối mỗi tuần học 5 tiết. Mỗi một tiết học toán thường 
gồm bài học và phần thực hành. Phần bài học chủ yếu nêu các tình huống được 
mô tả bằng hình vẽ hoặc mô hình giúp học sinh tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến 
thức, kĩ năng mới. Phần thực hành là các bài tập củng cố, được sắp xếp từ dễ 
đến khó.
 Mỗi bài toán, các em tự tìm ra đáp số dựa vào kiến thức, kĩ năng mà các em 
được lĩnh hội qua các bài học. Qua đó các em khám phá thế giới bí ẩn của toán 
học đồng thời rèn luyện bộ óc thông minh, sáng tạo của bản thân.
 Quá trình dạy học gồm hai hoạt động đó chính là hoạt động dạy của giáo 
viên và hoạt động học của học sinh. Hoạt động học của học sinh chỉ có hiệu quả 
khi học sinh học tập tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ đúng đắn. Kết 
quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động dạy của giáo viên. Trong 
quá trình dạy học điểm tập trung là người học chứ không phải là người dạy, tức 
là hoạt động dạy cần dựa trên nhu cầu hứng thú, thói quen và năng lực của 
người học. Mục đích cần đạt là để các em phát triển trên nhiều mặt chứ không 
nhằm vào một lĩnh vực kiến thức mà cần coi trọng việc hình thành phát triển kĩ 
năng tự học cho học sinh.
 Việc lựa chọn các phương pháp giải giải toán giúp các em tự tìm tòi cách 
giải quyết đúng nhất và hợp lí nhất. Từ đó các em tự rèn luyện đức tính kiên trì, 
tự lực vượt khó, cẩn thận đồng thời rèn luyện tính chính xác, chu đáo. 
 1/24 - Rút ra những bài học kinh nghiệm trên cơ sở kết quả đã đạt được và kiền nghị, 
đề xuất với cấp trên nhằm tạo điều kiện cho việc giảng dạy môn Toán ngày càng 
có chất lượng cao hơn.
5. Kế hoạch thực hiện
 - Tháng 9 – 2021: Lựa chọn nội dung đề tài sẽ nghiên cứu.
 - Tháng 10 – 2021: Đăng kí tên đề tài với nhà trường.
 - Tháng 10 – 2021 đến tháng 4 – 2022: Thực hiện các biện pháp nghiên cứu 
đề tài và viết đề cương.
 - Tháng 5 – 2022: Hoàn thiện và nộp đề tài. 
 - Thời gian thực hiện: Năm học 2021- 2022
- Phạm vi thực hiện: Lớp 5A và 5B - Trường Tiểu học Khánh Thượng .
- Thời gian thực hiện: Từ tháng 9/2021 – 4/2022.
6. Các phương pháp nghiên cứu: 
 - Phương pháp quan sát sư phạm. 
 - Phương pháp thực nghiệm giáo dục. 
 - Phương pháp điều tra giáo dục.
 - Phương pháp xây dựng giả thiết.
 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu và sản phẩm hoạt động. 
 - Phương pháp phân tích, tổng hợp lí thuyết.
 - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục. 
 3/24 + Biết đọc các số liểu trên biểu đồ hình quạt và bước đầu biết nhận xét về 
một số thông tin đơn giải.
 + Biết diễn đạt một số nhận xét quy tắc, tính chất bằng ngôn ngữ nói (nói viết 
dưới dạng công thức ) ở dạng khái quát.
 - Tiếp tục phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hoá cụ thể
hoá, bước đầu phát triển tư duy phê phán và sáng tạo, phát triển trí sáng tạo 
không gian.
 Nội dung trương trình sách giáo khoa:
 Theo chương trình môn Toán ở lớp 5 nội dung Toán 5 chia thành 175 bài học, 
hoặc thưc hành, luyện tập, ôn tập, kiểm tra. Mỗi bài thường được thực hiện 
trong khoảng 40 phút. Để tăng cường luyện tập thực hành, vận dụng các kiến 
thức cơ bản nội dung dạy học về lí thuyết đã đựơc tinh giảm, chỉ lựa chọn nội 
dung cơ bản thiết thực. Đặc biệt sách giáo khoa Toán 5 rất quan tâm đến ôn tập, 
củng cố, hệ thống hoá các kiến thức và kĩ năng cơ bản của chương trình toán 
tiểu học.
 Mặt khác cho ta thấy, căn cứ vào đặc điểm tâm lí của trẻ, hoạt động nhận thức 
của trẻ hồn nhiên chân thực, tư duy không bền vững. Trẻ chóng nhớ mau quên. 
Những gì trẻ đã hình thành và định hình ở trẻ thì khó thay đổi, đặc điểm này đòi 
hỏi việc cung cấp kiến thức cho học sinh phải chính xác, dễ hiểu. Chính vì vậy 
khi dạy môn Toán ở Tiểu học nói chung ở lớp 5 nói riêng người giáo viên phải 
nắm vững chương trình từng khối, trong lớp trong trường, bởi lớp nọ lớp kia có 
mối quan hệ chặt chẽ, móc xích với nhau, ở các lớp dưới là nền tảng cho các lớp 
trên.
2) Thực trạng dạy và học ở trường tiểu học.
2.1 Tình hình thực tế khi chưa thực hiện: 
 Đầu năm học 2021 – 2022, dưới sự phân công của ban giám hiệu nhà 
trường tôi được giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5B. Lớp của tôi có 39 học sinh, 
trong đó có 19 học sinh nữ và 20 học sinh nam. Đó là một lớp đại đa số bố mẹ 
các em đều làm ruộng, buôn bán nên nhận thức về việc học của con em có nhiều 
hạn chế, chưa quan tâm đền việc học của các em. Một số gia đình còn phó thác 
toàn bộ việc học của con em họ cho thầy cô giáo và nhà trường. Trong lớp có 
nhiều em học sinh chưa ngoan, hay nói chuyện, làm việc riêng trong các giờ 
học, không chăm chú nghe cô giáo giảng bài. Đặc biệt nhiều em còn mải chơi, 
lười học bài và làm bài, chưa chú ý đến việc học của bản thân. Đối với môn 
Toán, các em học hành chểnh mảng, thường hay làm bài qua loa, làm bài còn 
nhầm lẫn giữa các dạng bài, trả lời còn lúng túng. Khi làm các bài kiểm tra một 
số em còn không làm hết bài hoặc làm lẫn lộn, trả lời thiếu hoặc sai, bài ở dạng 
 5/24 Đối với các môn học ở tiểu học nói chung thì thiết bị dạy học là một yếu tố 
cũng không kém phần quan trọng. Nó là một bộ phận hỗ trợ đắc lực cho các nội 
dung và phương pháp dạy học để đạt được mục tiêu của các bài học đã đề ra. 
Riêng đối với môn Toán, thiết bị dạy học có một vai trò quan trọng, giúp các em 
hứng thú say mê với môn học này. Bởi vì, các em học sinh tiểu học chủ yếu tư 
duy còn thiên về hình ảnh và tư duy cụ thể, còn mang tính hình thức, tiếp thu bài 
nhanh bằng cách dựa vào đặc điểm trực quan của đối tượng. Do vậy trong quá 
trình giảng dạy, chúng ta nên sử dụng các đồ dùng trực quan cần phải đúng lúc, 
đúng chỗ để các em dễ tiếp thu bài học và nắm bắt kiến thức nhanh.
 Tuy nhiên, trong khi sử dụng chúng ta không nên lạm dụng, sử dụng phải 
đúng lúc, đúng chỗ để các em tiếp thu bài học một cách nhanh chóng, dễ nắm bắt 
kiến thức. Bởi vì tâm lí lứa tuổi của các em tiểu học thích hay tò mò, không chú ý 
tập trung dễ phân tán tư tưởng trong khi nghe giảng có thể dẫn đến chán học. Biện 
pháp này tôi sử dụng trong phần giảng bài mới, phần giới thiệu bài, phần dẫn dắt để 
tìm ra các kiến mới trong các bài học mà các em cảm thấy trừu tượng.
 Đồ dùng trực quan bao gồm các băng hình, tranh vẽ, các hiện vật . Để 
minh học cho các bài giảng để tiết học trở nên sinh động hơn, các em hào hứng 
tiếp thu bài. Những đồ dùng trực quan phải gần gũi với các em hoặc những cái 
có sẵn trong tự nhiên, .. 
 Ví dụ 1: Khi dạy bài “Hỗn số” 
 Hỗn số là một khái niện mới khi các em bắt đầu lên lớp 5 mới được làm 
quen. Để các em có khái niệm ban đầu về hỗn số, khi giảng bài tôi đã sử dụng 
đồ dùng dạy học như sau: Trước hết tôi gắn 2 hình tròn được tô màu hết lên 
bảng cho các em quan sát. Sau đó tôi gắn tiếp một hình tròn được chia làm 4 
phần bằng nhau, trong đó có ba phần đã tô màu. Sau khi HS quan sát và biết 
được có 2 hình tròn đã tô màu và 3 hình tròn đã tô màu, tôi giới thiệu cho các 
 4
em: 2 hình tròn và 3 hình tròn được viết gọn là 2 3 được gọi là hỗn số. Để nắm 
 4 4
được cấu tạo của hồn số, tôi viết 2 3 lên bảng, các em quan sát, tôi giới thiệu 
 4
cho các em 2 là phần nguyên, còn 3 là phần phân phân số. Các em cùng quan 
 4
sát và đưa ra nhận xét: Phần phân số của các hỗn số bao giờ cũng bé hơn đơn vị. 
 Các đối tượng hình học được đưa vào chương trình môn Toán ở bậc Tiểu 
học đều cơ bản, cần thiết và thường gặp trong đời sống. Học sinh Tiểu học đến 
các lớp cuối cấp, trí tưởng tượng của các em đã phát triển nhưng vẫn còn phụ 
thuộc vào mô hình vật thực, suy luận của các em đã phát triển song còn cảm 
 7/24 Môn Toán ở bậc Tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ bản 
ban đầu về số học các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông 
dụng, một số yếu tố hình học và thống kê, hình thành các kĩ năng thực hành tính, 
đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống và bước đầu 
phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát 
hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích 
trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học toán, hình thành bước đầu phương 
pháp tự học và làm việc có khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. 
 Vì vậy trong các giờ học môn toán, chúng ta cần giảng các kiến thức mới 
bằng những lời giảng ngắn gọn, giàu hình ảnh, tránh dùng các lời giảng dài 
dòng, không có trọng tâm của bài học,  để các em đễ nắm bắt kiến thức. Học 
sinh Tiểu học do chú ý không chủ định phát triển, rất mạnh nên cái gì mới mẻ, 
gây bất ngờ đối với các em thường được các em tập trung chú ý nhiều hơn. Đấy 
là cơ hội cho chú ý không chủ định trở lên mạnh mẽ. Do đặc điểm tâm lí đó, đòi 
hỏi mỗi một người giáo viên cần phải chú ý làm thế nào cho các tiết dạy của 
mình trở lên hấp dẫn, lí thú, cần lựa chọn các từ ngữ ngắn gọn, giàu hình ảnh để 
tất cả các em học sinh trong lớp đều tham gia hoạt động học tập, tiếp thu bài 
nhanh và phát triển sự chú ý có chủ định cho tất cả các em. Biện pháp này được 
tôi sử dụng trong bước giảng bài mới của tất cả các tiết học môn Toán. 
 Ví dụ 1: Khi dạy bài:“Số thập phân”
 Số thập phân là một khái niệm mới khi các em bắt đầu lên lớp 5 mới được 
bắt đầu làm quen. Khi dạy hình thành khái niệm số thập phân để các em hiểu bài 
nhanh và nắm được kiến thức, tôi đã lựa chọn cách giảng dạy như sau: 
 Trước hết tôi đưa bảng như SGK, tôi yêu cầu các em quan sát bảng, tôi hỏi: 
+ 2 m 7 dm gồm mấy mét và mấy phần của mét? 
+ 7 dm bằng bao nhiêu phần của mét? 
+ Vậy 2 m 7 dm được viết dưới dạng hỗn số ntn? 
 7
 Tiếp đó tôi giới thiệu cho các em biết 2 m viết thành 2, 7 m. Các ví dụ còn 
 10
lại tôi tiến hành tương tự như trên, để các em nhận biết các số thập phân còn lại. 
Sau đó tôi yêu cầu các em quan sát các số thập phân ở các ví dụ trên bảng và 
SGK và rút ra các nhận xét về số thập phân. Các em vận dụng các kiến thức vừa 
học để áp dụng vào phần luyện tập. 
Ví dụ 2: Khi dạy bài:“Giải toán về tỉ số phần trăm”
 Trong môn Toán lớp 5, tỉ số phần trăm được giới thiệu là kết quả so sánh số 
đo của hai đại lượng có cùng đơn vị đo và kết quả đó được biểu thị dưới dạng 
một phân số thập phân có mẫu số là 100. Bởi vậy đây là một kiến thức mới mẻ 
còn lạ lẫm đối với các em ở các lớp dưới. Vì vậy khi dạy bài này tôi đã lựa chọn 
 9/24 dụng vào các bài toàn khác có liên quan đến kiến thức đó, tôi đã củng cố các 
kiến thức cho các em sau mỗi bài tập.
 Ví dụ 1: Khi dạy bài:“Giải toán về tỉ số phần trăm”
 Giải các bài toán có liên quan đến tỉ số phần trăm là dạng bài rất khó đối 
với các em. Các em hay nhầm lẫn giữa các dạng với nhau. Vì vậy sau mỗi dạng, 
sau mỗi bài ở từng dạng chúng ta nên khắc sâu kiến thức cho các em để các em 
vận dụng vào các bài toán cụ thể tránh nhầm lẫn.
+ Dạng 1: Tìm tỉ số phần trăm của hai số. Sau khi các em lần lượt làm các bài 
tập tôi thường củng cố các kiến thức về tìm tỉ số phần trăm của hai số cho các 
em.
Bài 1: Tìm tỉ số phần trăm của hai số: 
a, 19 và 30 b, 45 và 61 c, 1,2 và 26
19 : 30 = 0,6333 = 63, 33 % 
45 : 61 = 0, 7377 = 73, 77 % 
1,2 : 26 = 0, 0461= 4, 61 %
- Muốn tìm tỉ số phần trăm của hai số ta làm như thế nào? 
Bài 2: Một lớp học có 25 học sinh, trong đó có 13 học sinh nữ. Hỏi số học sinh 
nữ chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh của cả lớp đó? 
 Bài giải 
Tỉ số phần trăm của học sinh nữ so với học sinh của cả lớp đó là: 
 13 : 25 = 0,52 = 52 % 
 Đáp số: 52 % 
 Vì vậy sau bài học này các em được củng cố thêm cách tìm tỉ số phần trăm 
của hai số bằng cách tìm thương của hai số đó rồi nhân thương đó với 100 và 
viết kí hiệu % vào bên phải tích tìm được để các em phân biệt với hai dạng bài 
còn lại có liên quan đến tỉ số phần trăm. 
+ Dạng 2: Tìm một số phần trăm của một số do đó các em cần nắm được cách 
giải của các bài tập ở dạng này tránh nhầm lẫn với dạng trước đã học. Để các em 
làm bài nhanh và không bị nhầm lần với các dạng đã học ở các tiết học trước, 
trong các tiết học nhất là tiết luyện tập tôi thường xuyên củng cố các kiến thức ở 
dạng này và yêu cầu các em so sánh với dạng bài trước có gì giống và khác 
nhau.
 Bài 1: a, Tìm 15 % của 320 kg
 b, Tìm 24 % của 235 m2 
 c, Tìm 0,4 % của 350 
+ 15% của 320 kg là : 320 : 100 x 15 = 48 ( kg ) 
 Hoặc: 320 x 15 : 100 = 48 ( kg ) 
 11/24

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_nang_cao_chat_lu.doc