Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khối 2 học tốt Bài thể dục theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống
- Qua thực tế nhiều năm tôi giảng dạy môn Giáo dục thể chất, tôi nhận thấy môn Giáo dục thể chất là một trong những bộ phận của nền giáo dục, góp phần làm thay đổi mọi mặt của giáo dục toàn diện có ảnh hưởng rất lớn tới các mặt giáo dục khác, có vị thế hết sức quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh có đầy đủ khả năng, sức khỏe để tham gia vào cuộc sống sản xuất và bảo vệ tổ quốc. Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng mục tiêu phát triển con người toàn diện, khẳng định tầm quan trọng “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp: công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực”. Nên bộ môn Giáo dục thể chất lớp 2 của bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống có nhiều sự đổi mới.
- Giáo dục thể chất là một phần quan trọng trong hệ giáo dục quốc dân, góp phần giáo dục con người phát triển toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xu hướng đổi mới giáo dục hiện nay đang đặt ra cho giáo viên Giáo dục thể chất ở trường Tiểu học đòi hỏi phải làm sao để dạy tốt các bài thể dục có trong chương trình ở bậc tiểu học nói chung, lớp 2 nói riêng. Cụ thể là bài thể dục của chương trình Giáo dục thể chất lớp 2 bộ sách kết nối tri thức với cuộc sống.
- Mục đích giáo dục thể chất trong nhà trường Tiểu học nhằm góp phần bảo vệ sức khỏe, cung cấp những kiến thức cơ bản về vệ sinh cơ thể, môi trường,... hình thành thói quen tập luyện, biết thực hiện một số động tác cơ bản thể dục thể thao, trò chơi vận động,... tạo nên môi trường phát triển tự nhiên của trẻ em, gây được không khí vui tươi, lành mạnh, nhanh nhẹn, mạnh dạn, dũng cảm,...
- Mục tiêu giáo dục thể chất là bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người phát triển toàn diện có đủ sức khoẻ dồi dào thể chất cường tráng và cuộc sống vui tươi. Hiện nay vấn đề sức khoẻ phải được coi trọng phải đẩy mạnh mọi mặt công tác thể dục thể thao để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Đăc biệt là bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho học sinh đây là vấn đề cấp thiết, vì các em là những mầm non của đất nước là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, tương lai đất nước thuộc về các em, do đó các em cần có sức khoẻ tốt có lí tưởng cao đẹp để gánh vác nhiệm vụ nặng nề ấy. Với những mục tiêu và yêu cầu cấp bách đó bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh khối 2 học tốt Bài thể dục theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống”.
- Vậy để học sinh yêu thích và học tốt bài thể dục với vai trò là người giáo viên dạy chuyên Giáo dục thể chất tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ nhằm tìm ra các biện pháp dạy học hợp lý nhất. Cụ thể là dạy bài thể dục lớp 2.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khối 2 học tốt Bài thể dục theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống
2 là bồi dưỡng và nâng cao sức khoẻ cho học sinh đây là vấn đề cấp thiết, vì các em là những mầm non của đất nước là những người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, tương lai đất nước thuộc về các em, do đó các em cần có sức khoẻ tốt có lí tưởng cao đẹp để gánh vác nhiệm vụ nặng nề ấy. Với những mục tiêu và yêu cầu cấp bách đó bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh khối 2 học tốt Bài thể dục theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống”. - Vậy để học sinh yêu thích và học tốt bài thể dục với vai trò là người giáo viên dạy chuyên Giáo dục thể chất tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ nhằm tìm ra các biện pháp dạy học hợp lý nhất. Cụ thể là dạy bài thể dục lớp 2. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm mục đích giúp học sinh lớp 2 học tốt bài thể dục. Giúp học sinh vận dụng tốt bài thể dục vào thực tế. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh khối lớp 2 trường Tiểu học Chu Minh 4. Phương pháp nghiên cứu - Đọc tài liệu, xem băng hình. - Trao đổi, học tập qua đồng nghiệp, các đồng chí cán bộ quản lí giáo dục. - Dạy thực nghiệm. 5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu - Thời gian để thực hiện đề tài này là: từ thàng 9/2022 – 3/2023. - Địa điểm: Tại trường tiểu học. 4 sự thu hút được sự tập trung cao độ, tích cực tập luyện có hiệu quả,...là vấn đề đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư suy nghĩ, nghiên cứu. - Từ thực tế giảng dạy và xuất phát từ mục tiêu trên, để đáp ứng được mục tiêu của giáo dục thể chất nói chung và ở trường tiểu học nói riêng. Với những mục tiêu và yêu cầu cấp bách đó bản thân tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp giúp học sinh khối 2 học tốt Bài thể dục theo bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống”. * Một số sai lầm thường mắc khi thực hiện bài thể dục lớp 2: + Không thực hiện đúng phương hướng, biên độ động tác, các động tác tay giơ cao các em không đưa tay lên hết biên độ hoặc co tay, cúi đầu. + Không thực hiện động tác hít vào và thở ra hoặc nhịp hô nhanh quá các em không thực hiện kịp. + Không biết cách chuyển trọng tâm ở động tác toàn thân. + Không thẳng chân khi gập bụng hoặc đá chân. 3. Điểm mới của sáng kiến So với những tài liệu có liên quan thì sáng kiến của bản thân lại hướng dẫn học sinh lớp 2 nắm bắt được cách thực hiện các động tác của Bài thể dục. Qua đó, giúp học sinh thực hiện đúng biên độ các động tác. Đó cũng chính là điểm mới của đề tài. 4. Thực trạng của nội dung nghiên cứu: a. Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo của ban lãnh đạo nhà trường. - Đa số học sinh đều chăm ngoan, yêu thích môn Giáo dục thể chất. - Giáo viên bộ môn đã tìm hiểu và nắm được tình hình học sinh. - Ở các khối 1 học sinh đã học qua các bài thể dục trong chương trình và phương pháp dạy học. b. Khó khăn: - Cơ sở vật chất chưa đảm bảo, chưa có nhà đa chức năng. - Qua thực tế giảng day nhiều năm, tôi nhận thấy thực tế, môn Giáo dục thể chất ở các trường học chỉ được coi là môn học phụ, cốt chỉ học tốt Toán, Tiếng 6 Biện pháp 1: Giải thích kĩ thuật. - Trong giải thích kĩ thuật thể dục thể thao việc vận dụng phương pháp giải thích là giúp học sinh có mục đích, hiểu nắm được yếu lĩnh từng động tác, tạo điều kiện cho học sinh tiếp nhận bài tập chính xác về mặt kĩ thuật, qua đó nhằm hình thành biểu tượng chung về động tác cho học sinh. Thường khi mô tả động tác phải diễn ra đồng thời với quá trình làm mẫu. - Lời giải thích của giáo viên cần ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Việc giải thích cần được chú ý giúp học sinh nắm được nét cơ bản kĩ thuật và nhấn mạnh yếu lĩnh của động tác đã học, qua đó nhằm củng cố kĩ năng, kĩ xảo vận động, tránh được những sai sót mắc phải trong luyện tập, đánh giá được ý thức tập luyện động tác của học sinh. Vì vậy lời giải thích của giáo viên có ý nghĩa đáng kể trong quá trình tập luyện, học tập. Biện pháp 2: Làm mẫu động tác. - Khi dạy động tác mới thì việc làm mẫu là một trong những biện pháp rất cần thiết. Trước hết giáo viên nêu tên động tác, sau đó tiến hành làm mẫu. Khi làm mẫu giáo viên phải thể hiện đúng yếu lĩnh của động tác và làm mẫu hoàn chỉnh động tác. - Đối với những động tác khó, phức tạp, có sự phối hợp của nhiều bộ phận, giáo viên nên làm mẫu chậm từng nhịp hoặc có thể dừng lại ở những cử động khó để học sinh làm theo và giáo viên quan sát xem học sinh tập có đúng hay không. Ví dụ: Khi dạy động tác “Phối hợp”. Giáo viên tổ chức làm mẫu từng nhịp của động tác và cho học sinh cùng làm. - Sau lần làm mẫu đầu tiên giáo viên kết hợp cho học sinh xem tranh minh họa. Khi xem giáo viên cần nhấn mạnh những điểm cơ bản của động tác, giúp học sinh nắm chắc các cử động kĩ thuật. - Tiếp đó giáo viên có thể làm mẫu một lần nữa nếu như thấy còn một số học sinh chưa thực sự nắm chắc kĩ thuật động tác. Đối với lần làm mẫu này giáo viên thực hiện với một mức độ bình thường, đối với các cử động khó giáo viên có thể vừa làm vừa nhắc nhở sự chú ý tập trung của học sinh. 8 “Động tác vươn thở...bắt đầu 1, 2, 3, 4, 5, 6,7, 8; 2, 2, 3, 4, 5, 6, 7, tay 1, 2, 3, 4,...”. + Nhịp hô của giáo viên cần to, rõ ràng và phù hợp theo từng động tác Ví dụ: - Động tác: Vươn thở, Điều hoà nhịp hô phải chậm. - Động tác: Tay, Lườn, Bụng, Phối hợp, nhịp hô phải trung bình. - Động tác: Chân, Nhảy nhịp hô hơi nhanh. Biện pháp 4: Tổ chức tập luyện theo nhóm đôi, nhóm lớn. - Cũng giống như một số môn khác, sử dụng học tập theo nhóm đôi nhằm giúp cho học sinh phát huy được tính mạnh dạn, tự tin và có điều kiện cùng nhau tiến bộ trong học tập. Đối với phân môn Giáo dục thể chất cũng như vậy, sau khi giáo viên đã hướng dẫn xong kĩ thuật động tác và tổ chức cho học sinh tập luyện đồng loạt cả lớp một số lần kết hợp với quan sát, uốn nắn, sửa sai tại chỗ. Nhưng cứ tập theo đội hình cả lớp như vậy thì sẽ gây nên sự nhàm chán, đơn điệu, mỗi lần giáo viên dừng lại sửa sai cho một em thì cả lớp cũng phải ngưng tập gây lãng phí thời gian. Vậy nên sau một vài lần tập thì giáo viên sẽ chia lớp thành nhiều nhóm đôi, nhóm phân công vị trí cũng như nhiệm vụ cho các nhóm tập luyện. Lợi thế của đội hình tập luyện này là các học sinh có thể giúp đỡ lẫn nhau, chỉ bảo nhau những hình thức mà mình lĩnh hội được, từ đó giúp các em khắc sâu thêm kiến thức, khơi dậy cho các em tinh thần đoàn kết, tự học. Hơn thế nữa, khi tập các động tác khó cần có sự phối hợp của nhiều bộ phận trên cơ thể thì tập theo nhóm đôi, nhóm lớn sẽ giúp học sinh sửa sai cho nhau qua các lời nhận xét, cùng giúp đỡ nhau thực hiện đúng động tác, đồng thời khi dạy theo hình thức này, giáo viên cũng có nhiều thời gian quan sát và sửa sai cho học sinh mà không gây ảnh hưởng tới các học sinh khác. Ví dụ: Khi học động tác “Phối hợp” đối với những cử động khó như bước chân ra trước, trùng gối,... Học sinh A có thể chỉ cho học sinh B thấy được những cử động tập chưa chính xác, từ đó chỉnh sửa cho đúng với yêu cầu kĩ thuật động tác và ngược lại. 10 phấn tập luyện, tiếp thu tốt kiến thức thì giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua tập luyện theo nhóm nhỏ, sau đó tuyên dương động viên những nhóm, hoặc những em học sinh tập tốt. Biện pháp 6: Sử dụng “Băng đĩa nhạc có lời hô” vào tiết dạy. - Bài thể dục lớp 2 gồm có 8 động tác, thế nhưng khi giảng dạy không phải động tác nào cũng có nhịp hô như nhau mà tuỳ thuộc vào từng động tác, có những động tác cần hô chậm và kéo dài để học sinh tập kịp kết hợp phối hợp các bộ phận của cơ thể như: động tác vươn thở, điều hòa; nhưng có động tác cần hô hơi nhanh, hô vừa. Vậy nên khi học sinh tập cả lớp giáo viên nên sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô để giúp học sinh thực hiện động tác đúng biên độ. Bên cạnh đó giáo viên có thêm thời gian để quan sát, uốn nắn, sửa sai kịp thời cho từng học sinh đối với những động tác mà các em tập chưa đúng. Đồng thời khi sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào tiết dạy còn làm cho tiết học thêm phong phú, sinh động, học sinh có hứng thú học tập hơn. Biện pháp 7: Sử dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Phương pháp gồm 5 hoạt đông cơ bản: - Hoạt động khởi động Mục đích là tạo tâm thế học tập cho học sinh, giúp các em ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú với học bài mới, giúp chuyển cơ thê từ trạng thái tĩnh sang trạng thái vận đông. - Hoạt động hình thành kiến thức Mục đích là giúp học sinh chiếm lĩnh được kiến thức, kỹ năng mới và bổ sung vào hệ thống kiến thức, kỹ năng của mình. - Hoạt động luyện tập Mục đích của hoạt động này là giúp học sinh củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được. - Hoạt động vận dụng 12 giáo viên tập mẫu theo kiểu soi gương tức là tập cùng hướng với học sinh. Quá trình thực hiện như vậy cần làm chậm, có thể dừng lâu ở cử động khó hoặc ở cuối nhịp để học sinh quan sát kiểm tra các bạn thực hiện. - Giáo viên vừa làm mẫu vừa hô nhịp cho học sinh tập lại lần hai. - Những lần đầu tập giáo viên cần tập mẫu và hô nhịp cho học sinh tập, dần dần hướng dẫn để cán sự điều khiển. - Sau khi tập động tác tương đối thuần thục, giáo viên cho học sinh tập ôn phối hợp với các động tác trước đến động tác mới học và có sự tập mẫu của giáo viên hoặc cán sự lớp. Vi dụ: Nếu giờ trước học sinh ôn 4 động tác, tiết này học động tác thứ 5, thì giáo viên cho học sinh ôn tập phối hợp 5 động tác. - Khi cán sự điều khiển lớp tập bài, giáo viên cần uốn nắn nhịp hô nhanh hay chậm cho cán sự, sau đó mới cho cán sự chủ động điều khiển, giáo viên đi hỗ trợ, giúp đỡ sửa sai cho các em. - Để các em tập đều và đẹp thì ở mỗi động tác giáo viên cũng cần nhắc học sinh nắm hướng quay của mặt. Điều đó giúp cho các em quan sát và tự chỉnh sửa được một số chi tiết của động tác. Ví dụ: Động tác 1: Vươn thở của bài thể dục lớp 2. + Nhịp 1: Giáo viên nhắc học sinh đưa hai tay song song ra trước, bàn tay sấp, mắt nhìn thẳng, hít sâu vào bằng mũi. + Nhịp 2: Giáo viên nhắc học sinh từ từ hạ tay xuống và thở ra bằng miệng. + Nhịp 2: Giáo viên nhắc học sinh đưa tay từ dưới sang ngang lên cao chếch chữ V, lòng bàn tay hướng vào nhau, đầu ngữa, mắt nhìn theo tay, hít sâu vào bằng mũi. - Đối với những động tác khó hoặc một số nhịp động tác khó tập giáo viên có thể cho các em tập đi tập lại nhiều lần ở nhịp đó hoặc động tác đó để các em nhớ và thực hiện thành thục hơn. Ví dụ: Ở động tác 3: Chân của bài thể dục lớp 2. + Nhịp 2: Chân phải đứng thẳng, chân trái đưa sang ngang, hai tay dang ngang bàn tay sấp. 14 + Mỗi tổ (cá nhân) lên thực hiện một trong bốn động tác theo phiếu bóc thăm, tổ hoặc cá nhân thực hiện tốt sẽ được ghi nhận đánh dấu vào sổ theo dõi học tập. + Cho học sinh tập dưới dạng thi đua tập đúng, tập đẹp có phân thắng - thua có thưởng và phạt hoặc đánh dấu theo dõi vào sổ. + Động viên học sinh xung phong hoặc mỗi tổ cử đại diện lên thi đua xem ai tập đúng tâp đẹp nhất. + Các tổ còn lại quan sát nhận xét. Giáo viên chốt. 6. Kết quả Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào dạy học tôi thu được kết quả sau: *Khảo sát cuối năm nội dung thực hiện các động tác bài thể dục lớp 2 Thực hiện động tác bài thể dục TSHS Đạt Chưa đạt SL % SL % 112 109 97,3 3 2,7 16 * Bài học kinh nghiệm - Để đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức các hoạt động theo hướng tích cực hóa, cũng như để đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học môn Giáo dục thể chất trong giai đoạn hiện nay, tạo ra môi trường cung cấp cho xã hội những con người có sức khỏe tốt, thể lực cường tráng, dẻo dai. Bản thân tôi rút ra một số bài học sau: + Cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, chú ý tập trung vào việc phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh. Thường xuyên sử dụng các phương pháp dạy học đặc trưng của môn học để giúp học sinh nhanh chóng lĩnh hội được kiến thức cơ bản. + Đối với những động tác khó, giáo viên phải hướng dẫn và làm mẫu từng cử động sau đó mới tiến hành hướng dẫn và làm mẫu toàn bộ động tác. + Phân bố thời gian tiết học hợp lí, sao cho tất cả các học sinh được thực hành tập luyện nhiều lần, chú ý đặc điểm cá biệt của học sinh, ưu tiên sử dụng chia tổ, nhóm nhỏ để tập luyện. + Kết hợp giữa nội dung học tập và trò chơi ở mức hợp lí, thường xuyên áp dụng phương pháp trò chơi, thi đua, để kích thích sự hưng phấn tập luyện ở học sinh, góp phần giảm sự nhàm chán ở một số học sinh. + Khi hướng dẫn kĩ thuật động tác cần giải thích ngắn gọn, dễ hiểu, giáo viên làm mẫu phải chuẩn xác và chọn vị trí đứng làm mẫu thích hợp. + Cần khuyến khích sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các em, giờ học nên diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng. + Cần sử dụng băng đĩa nhạc có lời hô vào việc dạy học nhằm làm cho lớp học trở nên sinh động, giảm thời gian làm việc cho giáo viên, từ đó có điều kiện uốn nắn, sửa sai kịp thời. * Phạm vi áp dụng - Gồm 8 động tác của bài thể lớp 2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt bài thể dục. 2. Khuyến nghị Bên cạnh đó tôi xin đề xuất một số kiến nghị:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_khoi_2.doc

