Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Học vần Lớp 1, bộ sách Kết nối tri thức
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT
PHÂN MÔN HỌC VẦN LỚP 1”
1. Mô tả bản chất của sáng kiến:
1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:
Sau khi nắm bắt tình hình chung của lớp, cũng như đặc điểm, trình độ tiếp thu của từng học sinh, tôi đã đề ra những biện pháp cụ thể như sau:
Biện pháp 1: Những đổi mới trong cách dạy của giáo viên:
a) Nhận định về sự đổi mới khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018.
- Giáo dục Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng và hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Thông qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, nhà trường bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực và ý thức trách nhiệm; hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực chung và hai năng lực đặc thù là năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học.
- Giáo viên phải thay đổi cách dạy theo từng thời điểm để phù hợp với từng đối tượng học sinh. Trong mỗi tiết dạy, giáo viên phải biết cách phát huy khả năng tự học, tự phát hiện của học sinh, dù là học sinh học chậm nhất (tùy theo khả năng của các em), bao quát hết mọi đối tượng. Vận dụng tốt phương pháp thay âm ở những cặp vần có kiểu vần giống nhau.
- Phân loại đối tượng học sinh trong giảng dạy để có phương pháp giảng dạy phù hợp.
- Sử dụng hệ thống câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng để luyện nói cho học sinh. Khi luyện viết cho các em phải chú ý uốn nắn, sửa sai tư thế ngồi, cách cầm bút, nét chữ học sinh, đặc biệt dành nhiều thời gian hơn hoạt động này.
- Vận dụng và phát huy đối đa tính năng của đồ dùng học tập và vốn từ sẵn có trong mỗi học sinh để các em nắm được bài một cách tự nhiên. Từ đó sẽ làm cho các em hiểu bài và nắm nội dung bài học một cách dễ dàng hơn.
- Sửa sai cụ thể từng học sinh về cách đọc, cách viết.
b) Đổi mới cách hướng dẫn học sinh đọc và viết:
- Để dạy tốt môn học vần người giáo viên cần phải chú ý phân loại học sinh để có biện pháp giúp đỡ các em trong học tập. Giáo viên có thể lựa chọn các giải pháp sau:
* Hoạt động hướng dẫn học vần mới; ghép, đánh vần, đọc trơn vần, tiếng mới, từ mới và từ câu ứng dụng:
- Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, giáo viên phải cho học sinh học các nét chữ cơ bản, phải dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm, để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái.
- Giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan cho các em tìm ra từ ứng dụng, sau đó cho các em tự tìm ra âm, vần mới sẽ học viết vào bảng con.
- Giáo viên tự cho học sinh nhẩm tìm ra cách đọc, đánh vần, đọc trơn âm, vần mới vừa tìm được.
- Cho các em đọc cho cả lớp nghe: đọc đánh vần, đọc trơn (Giáo viên có thể sửa chữa nếu thấy các em đọc chưa đúng). Giáo viên nên khuyến khích các em đọc trơn.
- Cho học sinh tự tìm tiếp một âm, viết hoặc ghép âm đó vào vần vừa học để tạo ra tiếng mới, đọc tiếng vừa tìm được.
- Sau khi có tiếng cho học sinh tìm từ mới viết vào bảng con hoặc ghép bằng bảng cài, cho các em đọc đánh vần, đọc trơn từ, có thể tập cho các em bước đầu hiểu nghĩa của từ mà các em vừa tìm.
- Đối với câu ứng dụng, giáo viên cho các em tự nhẩm, đọc thầm, sau đó đọc to những từ này. Cho các em thi đua phát hiện những tiếng chứa vần mới viết vào bảng con và đọc lên những tiếng này.
* Đối với học sinh học chậm, chưa đọc được:
- Đối với đối tượng này, giáo viên phải sử dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinh nghe, yêu cầu giọng đọc của giáo viên phải chuẩn để học sinh bắt chước đọc theo, phải kết hợp phương pháp luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc chính xác các phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh.
+ Để giúp các em nhớ lâu các âm, vần, tiếng, từ vừa học, GV cần phải linh hoạt lồng ghép các trò chơi học tập ở cuối tiết học. Nhằm thay đổi không khí tiết học chuyển từ hoạt động học sang hoạt động chơi nhằm thu hút toàn bộ học sinh tham gia.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Học vần Lớp 1, bộ sách Kết nối tri thức

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập-Tựdo -Hạnhphúc BÁO CÁO SÁNG KIẾN “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÂN MÔN HỌC VẦN LỚP 1” 1. Mô tả bản chất của sáng kiến: 1.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện: Sau khi nắm bắt tình hình chung của lớp, cũng như đặc điểm, trình độ tiếp thu của từng học sinh, tôi đã đề ra những biện pháp cụ thể như sau: Biện pháp 1: Những đổi mới trong cách dạy của giáo viên: a) Nhận định về sự đổi mới khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018. - Giáo dục Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng và hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh. Thông qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, nhà trường bồi dưỡng cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng nhân ái, tính trung thực và ý thức trách nhiệm; hình thành, phát triển cho học sinh các năng lực chung và hai năng lực đặc thù là năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học. - Giáo viên phải thay đổi cách dạy theo từng thời điểm để phù hợp với từng đối tượng học sinh. Trong mỗi tiết dạy, giáo viên phải biết cách phát huy khả năng tự học, tự phát hiện của học sinh, dù là học sinh học chậm nhất (tùy theo khả năng của các em), bao quát hết mọi đối tượng. Vận dụng tốt phương pháp thay âm ở những cặp vần có kiểu vần giống nhau. - Phân loại đối tượng học sinh trong giảng dạy để có phương pháp giảng dạy phù hợp. - Sử dụng hệ thống câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng để luyện nói cho học sinh. Khi luyện viết cho các em phải chú ý uốn nắn, sửa sai tư thế ngồi, cách cầm bút, nét chữ học sinh, đặc biệt dành nhiều thời gian hơn hoạt động này. - Vận dụng và phát huy đối đa tính năng của đồ dùng học tập và vốn từ sẵn có trong mỗi học sinh để các em nắm được bài một cách tự nhiên. Từ đó sẽ làm cho các em hiểu bài và nắm nội dung bài học một cách dễ dàng hơn. - Sửa sai cụ thể từng học sinh về cách đọc, cách viết. b) Đổi mới cách hướng dẫn học sinh đọc và viết: Khi đọc giáo viên theo dõi cách phát âm của học sinh chú ý sửa phát âm, vần, tiếng từ mà các em đọc không chuẩn. Ví dụ: Giúp học sinh phân biệt để đọc đúng các âm, vần có cách phát âm giống nhau: g - r, ch - tr, ong - ông, ươi - ưi, ui - uôi, oi - ôi, ai - ay, iên – yên - iêng,.....hoặc thanh hỏi, thanh ngã. - Muốn cho học sinh đọc đúng giáo viên phải gợi mở, hướng dẫn các em so sánh hiểu được nghĩa của các tiếng, từ giáo viên phải đọc thật chuẩn rồi sửa lại cho các em, hướng dẫn cho các em đọc đúng hơn và chuẩn hơn. - Giáo viên vui vẻ giúp đỡ các em đọc còn quên âm. Luôn luôn khen ngợi khi các em có tiến bộ đôi chút, giúp cho các em không rụt rè, sợ sệt. Đối với những em mau quên không nhớ, giáo viên gợi ý lại cho các em những từ khóa đã được giới thiệu trước đây để đươc gợi mở cho các em. Ví dụ: Khi cô chỉ vào chữ"bảng"mà học sinh không nhớ mặt chữ không đọc được, giáo viên gợi ý chỉ vào"cái bảng"rồi đọc từ đó. Học sinh phân tích"bảng"gồm có âm gì, vần gì, đánh vần tiếng như thế nào, đọc trơn ra sao. Biện pháp 2: Giúp học sinh tập trung chú ý để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Học vần. a) Linh hoạt trong việc sắp xếp chỗ ngồi: Đối với bất cứ một cấp học nào cũng vậy, chọn chỗ ngồi trong lớp luôn được xem là việc hết sức quan trọng và nếu không sắp xếp một chỗ ngồi thích hợp và khoa học cho học sinh thì có thể gây ra những kết quả không mong muốn. Bởi lẽ, điều này không chỉ liên quan đến vấn đề nói chuyện riêng của học sinh, ảnh hưởng đến khả năng tập trung trong giờ học mà còn kéo theo yếu tố khác nữa. Tùy theo giới tính, cá tính, năng lực học tập, thể chất của học sinh giáo viên có thể sắp xếp chỗ ngồi phù hợp cho học sinh. Ví dụ: Đầu tháng 9 năm học: 2022-2023, tôi sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh theo sơ đồ sau: + Xếp những em hay nói chuyện riêng cùng dãy với em trầm tính, ngoan và không nói chuyện, các bàn đều xen kẽ nam và nữ (nhằm mục đích bình đẳng giới, hạn chế học sinh làm việc riêng, dung hòa các tính hiếu động của học sinh nam). + Đảm bảo một em học tốt được kèm một em học yếu hơn. Giúp các em có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và hoạt động để cùng nhau tiến bộ. + Cuối mỗi tuần, trong giờ sinh hoạt giáo viên tuyên dương các nhóm hoạt động có hiệu quả. Để các nhóm hoạt động có hiệu quả thì giáo viên phải thường xuyên đôn đốc, kiểm tra ý thức học tập của các nhóm. - Sử dụng mô hình, vật thật khi giải nghĩa từ giúp học sinh biết sự vật hay hoạt động được nói đến trong từ khoá, từ ứng dụng, hiểu đúng hơn về sự vật, hoạt động. Tôi đã sưu tầm nhiều vật thật có trong cuộc sống gần gũi với các em để giúp học sinh hiểu được từ gắn với đồ vật đó. Ví dụ: Khi dạy từ ứng dụng (như: sách vở, chênh lệch, tờ lịch,) ngoài những hình ảnh trong bài dạy qua ứng dụng công nghệ thông tin tôi còn sử dụng vật thật để giúp học sinh dễ hiểu hơn về nghĩa của những từ ngữ đó. d) Sử dụng tranh ảnh để minh hoạ đoạn ứng dụng: Sử dụng khai thác tranh ảnh khi dạy đoạn ứng dụng, giúp học sinh hiểu thêm về sự vật hay hoạt động được nói đến trong câu, từ mới trong đoạn ứng dụng. - Đoạn ứng dụng yêu cầu không chỉ có kĩ năng đọc thành tiếng mà còn có kĩ năng đọc hiểu. Ví dụ: Bài 49: ot – ôt – ơt - GV giới thiệu tranh minh họa đoạn ứng dụng: Tranh vẽ gì? (HS quan sát tranh và trả lời) + Giáo viên tiếp tục dẫn dắt học sinh vào nội dung đoạn ứng dụng: “Vậy các em muốn biết nội dung bức tranh nói gì cô cùng các em vào đoạn ứng dụng hôm nay nhé!”. Giáo viên gắn nội dung đoạn ứng dụng lên bảng và hướng dẫn học sinh luyện đọc. - Bằng câu hỏi gợi mở, học sinh thảo luận, sau đó một số học sinh trả lời (Nam đứng ở dưới đất nhìn lên cành cây, thấy một chú chim sâu, chú chim này rất là thân thiện, đứng trên cành nhảy qua nhảy lại, sau đó nó bay qua bay lại để tìm bắt sâu bọ cho cây, đây là chú chim sâu rất là có ích cho chúng ta. + Đối với các loài chim chúng ta cần phải làm gì? (Chúng ta cần phải chăm sóc và bảo vệ các loài chim) - Nhận xét kết quả đọc hiểu của học sinh, tôi đã chú ý biểu dương học sinh nói được lợi ích của loài chim trong bài. e) Sử dụng tranh ảnh, vật thật để giúp học sinh tái hiện nội dung phần luyện nói: - Khi sử dụng tranh ảnh vật thật hướng dẫn học sinh luyện nói trong giờ dạy Học vần, tôi đã sử dụng ảnh minh hoạ trong sách giáo khoa và sưu tầm tranh,ảnh, vật thật đúng mục đích, đúng yêu cầu, nêu bật nội dung chủ đề luyện nói. Ví dụ:Dạy bài 53: ap – ăp - âp. Khi dạy phần luyện nói với chủ đề “Đồ vật quen thuộc”, tôi sử dụng tranh sẵn có trong thư viện hoặc trình chiếu trên ti vi, in thêm một số tranh sưu tầm và + Thấy bông hoa chỉ có bốn cánh, cô bé đã làm gì? (Suy nghĩ một lát rồi cô bé nhẹ nhàng xé từng cánh hoa ra thành sợi nhỏ. Từ bông hoa có bốn cánh, giờ đã trở thành vô vàng cánh nhỏ) + Nhờ đâu người mẹ khỏi bệnh? (Nhờ lòng hiếu thảo, sự thông minh của cô bé mà mẹ đã khỏi bệnh) - Học sinh tiếp tục thi đua kể câu chuyện trong tổ và trước lớp. - Sau khi học sinh kể xong, giáo viên lại đặt câu hỏi để giúp học sinh nắm được ý nghĩa câu chuyện và liên hệ giáo dục. + Qua câu chuyện trên, em thấy cô bé là người như thế nào? (Có tấm lòng hiếu thảo đối với người mẹ bị ốm nặng, dũng cảm, thông minh, nhanh trí). + Là một người con trong gia đình, thì em cần phải làm gì? (luôn yêu thương, hiếu thảo với mọi người.. ) h) Linh hoạt sử dụng các đồ dùng dạy học khác: * Sử dụng mẫu chữ trong dạy tập viết: Sử dụng mẫu chữ trong tập viết, giúp cho các em ghi nhớ được hình dáng, cách viết chữ bằng nhiều giác quan (mắt nhìn, tai nghe), giúp các em ghi nhớ lâu và hình thành kĩ năng viết. Ví dụ: Dạy viết chữ hoa: N + Tôi đưa mẫu chữ + Yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét độ cao của chữ N; phân tích chữ N gồm mấy nét? Là những nét nào?. * Sử dụng bộ đồ dùng dạy học Tiếng Việt: Sử dụng bộ thực hành Tiếng Việt không những giúp học sinh nhận dạng chữ ghi âm, nắm được cấu tạo của vần, tiếng, từ mà còn phát triển tư duy. Các em được sử dụng tất cả các giác quan như mắt nhìn, tay cầm do đó các em sẽ ghi nhớ lâu. Không những thế, việc sử dụng bộ thực hành Tiếng Việt còn làm giảm bớt sự khô khan của việc tìm từ mà còn làm lớp học thêm sinh động, lôi cuốn được đông đảo học sinh tham gia. Ví dụ: Dạy bài 44: iu–ưu - Tôi đưa lệnh yêu cầu học sinh: + Ghép: iu- rìu; ưu- hưu Nhận xét việc học sinh ghép đúng (sai), kịp thời động viên khuyến khích những học sinh có tiến bộ để các em có tự tin hơn trong các giờ học sau. * Sử dụng sách giáo khoa, một số đồ dùng và phương tiện khác: Sách giáo khoa là một đồ dùng học tập không thể thiếu được trong mỗi tiết học. Việc hướng dẫn các em biết cách sử dụng sách giáo khoa giúp các em phát Minh họa: bút chì chào cờ phút chót mứt dừa nứtnẻ tràn trề ngôi sao lũ lụt đôi đũa bé gái dứt điểm cà chua râm bụt thuhút cúsút bứt phá nhà ngói sứt chỉ b)Trò chơi: Thi đua ghép âm (vần), tiếng. - Mục tiêu: Giúp học sinh ghi nhớ âm (vần), tiếng, từ vừa học, thao tác nhanh nhẹn trên bảng cài. - Tiến hành:Trò chơi này áp dụng cho bài Học vần tiết 1 hoặc cuối tiết 2. Giáo viên tổ chức cho các em tìm âm (vần), tiếng, từ vừa học rồi ghép trên bảng cài, ai nhanh nhất là người chiến thắng. Giáo viên có thể gợi ý để học sinh ghép được các tiếng ngoài bài. Ví dụ: Với bài ua - ưa, giáo viên hỏi: Âm l ghép với vần ua và dấu thanh sắc được tiếng gì? Học sinh ghép rồi đọc lên tiếng mình vừa ghép được (lúa). Giáo viên hỏi tiếp: Tiếng lúa có trong từ gì? Học sinh trả lời: cây lúa, hạt lúa c)Trò chơi:Thi đua tìm tên bạn - Mục tiêu: Học sinh tìm được những cái tên có chứa âm(vần) vừa học. - Tiến hành: Trò chơi này dùng sau phần dạy từ ứng dụng. Giáo viên tổ chức cho học sinh thi đua tìm tên của các bạn trong lớp có chứa âm (vần) vừa học. Ví dụ: - Bài: an - ăn- ân, học sinh có thể nêu tên các bạn: Lan, Văn, Hân; Bài ao, eo:Bảo,. d)Trò chơi: Ô cửa bí mật - Mục tiêu: Giúp học sinh hăng hái tham gia luyện đọc đúng từ ứng dụng có vần cần ôn tập. - Tiến hành: Giáo viên đính lên bảng một số thẻ từ, bên ngoài mỗi thẻ là hình ảnh các con vật như: con thỏ, con khỉ, con voi,) tượng trưng cho mỗi ô cửa, (mỗi ô cửa giấu một từ ứng dụng bên trong). Học sinh sẽ chọn cho mình một ô cửa rồi đọc từ ứng dụng cho cả lớp nghe. Trò chơi này có thể sử dụng ở phần kiểm tra bài cũ, cuối tiết học hoặc các tiết tăng cường. Ví dụ: Trong tiết Tiếng Việt (Tăng cường). Luyện tập ôn vần kết thúc bằng âm “t”. + Mục tiêu:Giúphọc sinh đọcđúngcáctừcóvầncầnôntậpkếtthúcbằngâm “t”. + Giáo viên giới thiệu về trò chơi, cách chơi:Gồmcó 5 ô cửa, mỗi ô cửa gắn với một chữ số, phía sau có gắn một thẻ từ.Các em sẽchọn ô Hình ảnh: Học sinh tham gia trò chơi: Ai nhanh, ai đúng? g)Trò chơi: Tìm tiếng trong phiếu - Mục tiêu: Giúp học sinh nhận diện nhanh các tiếng chứa các vần đang học. - Tiến hành: Giáo viên chuẩn bị cho học sinh một phiếu trò chơi, nội dung của phiếu tùy thuộc vào từng bài học cụ thể. Học sinh sẽ tìm và khoanh vào các tiếng chứa vần đang học (hoặc đang ôn tập) ở các hàng ngang và hàng dọc. Hết thời gian quy định, bạn nào khoanh được nhiều hơn sẽ thắng. Có thể áp dụng trò chơi này ở cuối tiết 2. Ví dụ: Bài 81- Ôn tập H Ô K T K O V H Ô I N H I M Đ L Ơ N E A T Ổ S O I Với bài này, học sinh sẽ tìm và khoanh vào những tiếng chứa vần đang ôn tập(những vần có kết thúc bằng âm n) như: HỔ, NHÍM, LỢN, SÓI, MÈO, KHỈ, KÌ ĐÀ..) Bước 1: Thu thập các thông tin lí luận để xây dựng cơ sở lí luận của đề tài. + Tìm hoàn cảnh gia đình của học sinh với mong muốn khắc phục những lỗi mà học sinh thường mắc phải. Bước 2: Thu thập thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. + Điều tra thu thập kết quả thực tế học sinh lớp 1B. + Tổng hợp kinh nghiệm của bản thân trong nhiều năm. + Chia sẻ kinh nghiệm ở tổ chuyên môn, Bước 3: Lập kế hoạch triển khai áp dụng các giải pháp. + Đối với giáo viên: - Nắm được đặc điểm mỗi cá nhân học sinh và gia đình của từng học sinh. + Đối với học sinh: Tự xây dựng ý thức, nền nếp học tập. Bước 4: Thu thập và xử lí thông tin: + Thu thập kết quả tiến bộ của học sinh. + So sánh đối chiếu kết quả trước và sau khi áp dụng giải pháp. + Phân tích nguyên nhân, tìm quy luật và rút ra bài học kinh nghiệm. 1.2. Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở): - Ở bậc Tiểu học, lớp đầu cấp rất quan trọng trong việc giáo dục những kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết để giao tiếp và tiếp cận tri thức một cách thông thạo. Trong đó, bộ môn Tiếng Việt có vai trò đắc lực trong việc rèn luyện kĩ năng này và phân môn không thể thiếu là phân môn Học vần. - Tuy nhiên, việc dạy và học phân môn Học vần trong thực tế hiện nay có phần hơi rập khuôn do tiến trình các tiết học vần tương tự nhau. Đa số giáo viên chỉ chú ý đến việc cung cấp hết kiến thức trong sách giáo khoa, mà ít quan tâm đến cảm xúc của trẻ. Chính vì vậy nhiều tiết Học vần trở thành tiết học nặng nề, mệt mỏi đối với học sinh. - Trong khi học sinh lớp Một chưa quen với những thay đổi từ giai đoạn vui chơi làm chủ đạo ở Mầm non sang giai đoạn phải làm quen với hoạt động học tập, đòi hỏi các em phải tập trung trong học tập mà mỗi học sinh cần rèn luyện từ ban đầu và là điều mà bất cứ giáo viên nào cũng mong muốn. Đầu năm học 2022 – 2023 tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 1B. Qua khảo sát, tìm hiểu học sinh và thực hành giảng dạy, tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau: a) Thuận lợi: * Đối với giáo viên:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot.docx