Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kỹ năng đọc hiểu cho học sinh Lớp 2, bộ sách Kết nối tri thức
Trong trường tiểu học việc dạy Tiếng Việt cho học sinh có vai trò, vị trí rất quan trọng giúp các em có những kiến thức về tự nhiên xã hội, hiểu biết nhiều hơn. Việc luyện đọc tốt giúp các em có khả năng cảm thụ cái hay cái đẹp của các bài văn, bài thơ từ đó góp phần bồi dưỡng tâm hồn cho các em, việc nâng cao kĩ năng đọc hiểu văn bản cho học sinh nhằm mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên xã hội và con người để góp phần hình thành nhân cách con người mới.
Ở Tiểu học, theo chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học mục tiêu dạy Tập đọc là:
+ Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
+ Biết thêm những từ ngữ về lao động, sản xuất, văn hóa….
+ Biết cấu tạo 3 phần của bài văn, bước đầu nhận biết bài văn ý chính.
+ Đọc đúng và rành mạch bài văn, nắm được ý chính của bài.
Đối với học sinh lớp 2, việc dạy đọc hiểu cho các em vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 2 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.
Qua thực tế giảng dạy ở khối lớp 2, bản thân tôi thấy rằng việc dạy học sinh đọc hiểu đúng sẽ dẫn đến việc viết đúng chính tả và học tốt môn Tiếng Việt. Hiện nay, học sinh lớp 2 việc đọc còn chậm, nhất là phần đọc hiểu các em còn hạn chế. Nhiều giáo viên còn lúng túng khi dạy tập đọc: Cần đọc bài tập với giọng như thế nào? Làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh? Làm thế nào để các em đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn? Làm thế nào để các em hiểu được “ văn”? Làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu? Làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống các em? Đó chính là trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ dạy tập đọc.
Từ thực tế giảng dạy phân môn Tập đọc đặc biệt là phần đọc hiểu ở trường Tiểu học, đáp ứng yêu cầu định hướng phát triển năng lực của học sinh để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi chọn và viết sáng kiến về “Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 2”. Đây là một phương pháp dạy học tích cực mang lại hiệu quả trong giờ học. Chính vì vậy mà chúng tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kỹ năng đọc hiểu cho học sinh Lớp 2, bộ sách Kết nối tri thức
2 ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi chọn và viết sáng kiến về “Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 2”. Đây là một phương pháp dạy học tích cực mang lại hiệu quả trong giờ học. Chính vì vậy mà chúng tôi lựa chọn đề tài này để nghiên cứu. II. Mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu Xác định những nội dung kiến thức cơ bản khi dạy Đọc hiểu cho học sinh lớp 2. Giúp học sinh đọc hiểu tốt và vận dụng vào thực tế tốt. III. Đối tượng nghiên cứu và khảo sát thực nghiệm: Học sinh lớp 2A2 IV. Phương pháp nghiên cứu: - Đọc tài liệu, xem băng hình. - Trao đổi, học tập qua đồng nghiệp, các đồng chí cán bộ quản lí giáo dục. - Dạy thực nghiệm. B. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Như chúng ta đều biết kĩ năng đọc là kĩ năng sống cơ bản của mỗi cá nhân, là công cụ quan trọng giúp con người mở rộng hiểu biết, nâng cao giá trị sống, giá trị văn hóa của mình. Kĩ năng đọc liên quan đến hoạt động giải mã và hiểu. Giải mã là chuyển dịch những từ ngữ in trên văn bản thành một thể hiện của lời nói dưới dạng ngôn ngữ thành tiếng. Hiểu là quá trình cá nhân chuyển dịch những từ ngữ ấy thành một thể hiện của việc lĩnh hội ý nghĩa văn bản trong trí nhớ. Vì vậy, để có kĩ năng đọc tốt, học sinh phải giải mã tốt và hiểu đúng (Carnine, 1997). Do đó, việc hướng dẫn học sinh “đọc thông hiểu đúng” là quan trọng hơn so với việc hướng dẫn học sinh phải phát âm chuẩn chính không cần thiết. Xuất phát từ thực tế đó, tôi tâm đắc nghiên cứu và đã thành công mang lại “Hiệu quả 4 Mặt khác mục tiêu dạy tập đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phong cách và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách giáo khoa. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi ích cho các em trong suốt cuộc đời. Phải làm cho các em thấy được đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Ở lớp 2, phân môn Tập đọc rèn cho học sinh có các kỹ năng đọc, nghe, nói. Cũng như ở các lớp, thông qua hệ thống bài tập đọc theo chủ điểm và những câu hỏi tìm hiểu bài, phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật...) và góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên, các bài tập đọc ở lớp 2 có số lượng từ nhiều hơn, việc luyện đọc bắt đầu chú ý đến yêu cầu biểu cảm, câu hỏi tìm hiểu bài chú trọng khai thác hàm ý nghệ thuật cũng nhiều hơn. II. Cơ sở thực tiễn Trong công tác dạy Tiếng Việt ở bậc tiểu học nói chung và dạy Tập đọc ở lớp 2 nói riêng, tôi nhận thấy: Khả năng tiếp thu môn học Tiếng Việt đọc của các em cũng nhiều hạn chế so với các môn Toán hay Tự nhiên Xã hội, ở phân môn Tập đọc lớp 2, đa phần các em đã đọc được, song một số em đọc cũng chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy, nhiều em phát âm chưa phân biệt rõ phụ âm đầu l/n; tr/ch; s/x. Đặc biệt học sinh trường tôi đang công tác thì đa số các em đọc còn ngọng phụ âm l/n, về kĩ thuật đọc chưa thể hiện được tình cảm, nội dung mà văn bản đề cập tới. Ví dụ như các em chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ trọng tâm, từ chìa khoá, trong những trường hợp sắm vai hay đối thoại các em cũng lúng túng, nhiều em cũng thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của mình. Đối với đối tượng học sinh trung bình và yếu các em chưa xác định được đâu là giới hạn những câu đối thoại của mình, với thực tế trên tôi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng đọc 6 Tôi tạo ra môi trường học tập thoải mái, vui vẻ cho học sinh thông qua việc tạo lớp học thân thiện giúp các em yêu trường, yêu lớp và yêu quý cô giáo, yêu thích môn học. Tôi tạo cho học sinh sự tin tưởng bằng việc lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của các em và một việc rất quan trọng nữa là giữ lời hứa với học sinh. Với những học sinh nhút nhát, tôi đã chủ động trò chuyện với các em về gia đình, về chuyện học hành hay một vấn đề nào đó mà các em yêu thích để các em cảm thấy gần gũi với cô giáo và từ đó tôi hiểu học sinh của mình hơn. Tôi thường xuyên giao cho những học sinh có tính nhút nhát, rụt rè trong lớp một số việc như phát vở, thu vở hay kèm những bạn kém hơn học bài để các em có cơ hội giao tiếp với các bạn trong lớp từ đó mạnh dạn, tự tin hơn. Học sinh sẽ rất vui, rất tự hào khi thấy mình đã làm việc có ích. Đây chính là những hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo dựng lớp học hạnh phúc, trường học hạnh phúc - Nơi "Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là rất quan trọng để phát triển năng lực của học sinh. Bởi học sinh không thể phát triển năng lực của mình trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Đặc biệt, đối với phần đọc hiểu là phần học dễ gây cho học sinh sự nhàm chán thì điều đó càng cần thực hiện triệt để hơn. Để tạo lớp học hạnh phúc, trường học hạnh phúc trong mỗi tiết học của phân môn Tập đọc tôi thường có phần khởi động để kích thích học sinh học tập hơn. Trước mỗi tiết học, tôi thường đưa ra những nhiệm vụ cụ thể cho chính bản thân mình như là: phải luôn khen học sinh một cách cụ thể, đầu mỗi tiết học tôi thường khởi động lớp học bằng các trò chơi để các em có một tâm thế vui tươi, phấn khởi tạo cảm giác hưng phấn để bước vào tiết học. Trong mỗi tiết học phải thường xuyên động viên, khen thưởng các em. Cuối mỗi tiết học, tôi thường tổng kết và 8 chơi của lớp. Cho các em luyện đọc thêm trong những bài của môn Toán, Tự nhiên xã hội, Hoạt động trải nghiệm và nêu cách hiểu. b) Đối với nhóm học sinh ở nhóm 2 Tâm lý các em này ngại thể hiện, các em nghĩ biết tự trả lời là được. Giáo viên cần khuyến khích,tuyên dương, khen, để các em mạnh dạn hơn. Ngoài ra cho các em tham gia đóng vai nhân vật trong giờ tập đọc hoặc kể chuyện để lôi cuốn các em. c) Đối với nhóm học sinh ở nhóm 3 Tâm lý các em thường thích bộc lộ, tự tin. Giáo viên cần đòi hỏi các em ở mức độ cao hơn. Lấy các em làm nhân tố tích cực từ đó phát triển thêm các em khác. 3. Biện pháp 3. Giáo viên chuẩn bị kĩ càng các phương tiện dạy học Trước khi lên lớp, tôi chuẩn bị kĩ càng thông qua các hoạt động sau: a) Hoạt động “Khởi động”: Giới thiệu bài là một khâu quan trọng trong tiến trình tiết học. Nó không chỉ có nghĩa về mặt nghi thức mà quan trọng hơn đó là một hoạt động tác động đến tâm lí người học, làm cho người học vào trạng thái sẵn sàng và tích cực học tập. Trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, việc đầu tư các biện pháp, phương tiện dạy học cho khâu giới thiệu bài có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Khâu giới thiệu bài chiếu lệ, hình thức không thể hiện tư tưởng, quan điểm về phương pháp của người dạy thiết nghĩ chỉ thích hợp với lối dạy truyền thống một chiều. Dưới đây là một số biện pháp tác động tạo tâm thế đọc và tìm hiểu bài cho học sinh: - Lời đọc thành tiếng diễn cảm của giáo viên. - Sử dụng phương tiện trực quan kết hợp đàm thoại hay kể chuyện. - Kể chuyện. - Đóng vai. - Đàm thoại định hướng và lôi cuốn học sinh vận dụng kinh nghiệm có liên quan đến bài học. 10 Theo tôi, hoạt động củng cố bài ngoài phần hướng dẫn học sinh lặp lại điều mới vừa được giảng để nhớ nội dung bài nên có thêm phần hoạt động hướng học sinh nhìn lại các chi tiết của bài đọc, vận dụng những thông tin đã nắm được từ bài đọc theo một cách khác hơn, theo hướng tổng hợp và nâng cao hơn Ví dụ: Dạy bài “ Yêu lắm trường ơi” (Tiếng việt 2, Tập 1 trang 55- KNTT) Khi hướng dẫn học sinh củng cố bài, thay vì yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi trong bài như: + Bạn nhỏ yêu những gì ở trường, lớp của mình? + Bạn nhỏ nhớ gì về cô giáo khi đến lớp không? Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi khác nhưng vẫn đòi hỏi học sinh phải vận dụng những điều, những chi tiết vừa mới nắm để trả lời, chẳng hạn như: + Những điều bạn nhỏ nhìn thấy khi bước chân vào ngôi trường là gì? Bạn nhỏ cảm thấy như thế nào khi ở trường, lớp? + Bạn nhỏ nhớ gì về cô giáo khi đến lớp ? + Em có nhớ lần đầu tiên bước chân vào ngôi trường mới không? Hình ảnh nào mà đến bây giờ em vẫn còn nhớ rõ nhất? Lúc ấy em cảm thấy thế nào? c) Hoạt động “Tổng kết”: Trong thực tiễn giảng dạy Tập đọc hiện nay, khâu dặn dò thường gồm các việc sau: xem lại bài cũ, đọc bài kế tiếp và trả lời câu hỏi của bài ấy. Đáp ứng việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của người học, khâu dặn dò cũng bao gồm hai việc là dặn học sinh xem lại bài cũ và chuẩn bị bài mới. Tuy nhiên, theo tôi nội dung cần cụ thể hơn. Đó là trong việc dặn dò xem bài cũ, giáo viên cần chỉ cho học sinh hướng xem bài một cách chủ động, sáng tạo hơn là học vẹt. Một lời hướng dẫn về cách học hay trao đổi về cách học, hay một bài tập, một câu hỏi như những phương tiện giúp học sinh xem và nêu lại những điều đã hiểu từ bài đọc theo cách tái hiện sáng tạo là những biện pháp thích hợp cho việc nâng cao chất lượng tự học ở nhà của học sinh. 12 những ngữ cảnh khác nhau. Từ đó góp phần cho học chính tả, luyện từ và câu, dùng từ thích hợp khi học tập làm văn. Ví dụ: Sự tích hoa tỉ muội (T2.Tiếng việt 2 - trang 110). Chú thích: “Hoa tỉ muội”: một loài hoa hồng, mọc thành chùm với rất nhiều nụ. Cho học sinh đọc nghĩa trong chú thích, sau đó cho học sinh gắn ý nghĩa đó với câu, đoạn chứa từ ấy, để các em hiểu rõ ràng “Hoa kết thành chùm, bông hoa lớn che chở cho nụ hoa bé nhỏ. Chúng cũng đẹp như tình chị em của Nết và Na.” b) Phân loại các dạng từ mà học sinh cần hiểu và cách thức tổ chức cho học sinh hiểu nghĩa các dạng từ ấy: + Từ không thể hiểu bằng ngữ cảnh và học sinh cũng chưa hề có kinh nghiệm nào liên quan: Đó là những từ đề cập đến sản vật địa phương, địa danh, sự kiện lịch sử. Ví dụ: giấc tròn ( Bài Mẹ – SGK Tiếng việt 2 - trang 116) Sắt tây ( Bài Ánh sáng yêu thương SGK Tiếng việt 2- trang 130) Cách giúp học sinh hiểu ý nghĩa là dùng tranh, vật thật, phim ảnh hoặc lời giải thích cụ thể sinh động của giáo viên. + Từ có thể hiểu bằng ngữ cảnh (liên quan đến trạng thái tinh thần, cảm xúc...) nhưng học sinh có vẻ chưa có trải nghiệm liên quan Ví dụ: Băn khoăn, bâng khuâng, bàng hoàng, do dự, quyết định,... Giáo viên nêu ví dụ là một câu chuyện, một tình huống,.. để học sinh hiểu nghĩa từ. Từ ví dụ mình đưa ra, giáo viên đề nghị học sinh nói ý nghĩa câu chứa từ mình mới giải thích để xem học sinh đã hiểu từ ấy chưa, và cũng như hiểu ý câu, đoạn chưa. Ví dụ câu chuyện: Bạn đến rủ An ra sân chơi bi. An đang do dự có nên đi hay không vì chưa làm xong bài tập. Cuối cùng, An quyết định mình sẽ ở nhà làm cho xong rồi mới đi bắn bi với bạn. Vậy theo con: An do dự vì điều gì? => Vậy do dự nghĩa là sao? Cuối cùng, An chọn điều gì? => Vậy quyết định nghĩa là sao? 14 (3) Tạo điều kiện cho học sinh tự khám phá bằng cách nhìn lại và vận dụng kinh nghiệm của mình. (4) Xem hiểu từ là phương tiện để giúp học sinh hiểu văn bản đọc. 5. Biện pháp 5: Giáo viên cần kĩ càng, tỉ mỉ, cẩn thận hướng dẫn chi tiết khi luyện đọc hiểu: Để hiểu được nội dung bài đọc thì giáo viên cần triển khai hiệu quả việc đọc thầm của học sinh. Vì vậy, vấn đề đọc thầm của học sinh chính là việc học có ý thức, còn đọc hiểu chỉ là kết quả đọc thầm.Giáo viên cần phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài, tức là tất cả những gì được đọc thì học sinh mới hiểu bài đọc. Bắt đầu từ việc giải nghĩa từ. Ngoài những từ khó của bài, giáo viên còn phải phụ thuộc vào năng lực học sinh để lựa chọn từ cần giải nghĩa. Chính giáo viên phải là người đọc nhiều, tự tìm tòi tự tập giải nghĩa nhiều để có “vốn”, có hiểu biết về từ để giải thích cho phù hợp. Đồng thời,giáo viên cần phải dự kiến những tình huống để sẵn sàng giải đáp cho học sinh về bất cứ từ nào trong bài mà em yêu cầu. Để phát huy được phần đọc thầm hiểu được từ cần nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh không phải xem tất cả các từ đều quan trọng như nhau mà cần chọn lựa các từ quan trọng gạch chân để giữ lại làm các từ “chìa khóa”, những từ mang ý nghĩa cơ bản, trọng tâm. Từ đó giúp ta hiểu được nội dung của cả bài. Ví dụ: Trong bài: “Cái trống trường em”: Cái trống lặng im Nghiêng mình trên giá Chắc thấy chúng em Nó mừng vui quá! Kìa trống đang gọi: Tùng! Tùng! Tùng! Tùng! Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc để gạch chân nói về những hình ảnh, từ ngữ để nói về cái trống. Đặc biệt ở đây là từ ‘‘Lặng im, nghiêng mình,
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_doi_moi_phuong_phap_d.docx

