Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc hiểu môn Ngữ văn 6 – Bài minh hoạ “Thạch Sanh“ (bộ sách Kết nối tri thức)
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ngày 24/01/2018 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực…”.
Môn Ngữ văn là một trong những môn quan trọng trong chương trình trung học cơ sở và trung học phổ thông bởi vì nó có tác động rất lớn đến việc giúp học sinh có một vốn tri thức về văn hóa ứng xử và giao tiếp trong cuộc sống.
Dạy học sinh đọc hiểu văn bản ở nhà trường phổ thông trước hết là để trang bị kiến thức cho người học một nền tảng kiến thức cơ bản của bộ môn. Dạy văn là dạy người, dạy cái hay, cái đẹp. Hiểu văn cũng là hiểu người, hiểu đời và hiểu chính bản thân mình. Đọc hiểu văn bản trong nhà trường thực ra là bước chuẩn bị hành trang quan trọng để học sinh “đọc” một “văn bản” rộng lớn hơn rất nhiều đó- là cuộc đời, tương lai rộng mở trước mắt. Đích đến đã rõ ràng. Còn lại là hành trình của cuộc đi đòi hỏi người giáo viên không ngừng tìm tòi sáng tạo để từng bước chuyển giao vai trò độc lập, tự chủ trong hoạt động của học sinh. Đặc biệt việc tiếp cận văn bản đọc hiểu trong môn Ngữ văn theo các cách thức khác nhau ở mỗi giai đoạn của quá trình đọc hiểu là một trong những biện pháp để quá trình nhận thức, chiếm lĩnh kiến thức của học sinh trở nên tích cực, chủ động, hiệu quả. Đây chính là một “bước đệm” quan trọng, là cây cầu nối không thể thiếu để bạn đọc từng bước trở thành một người đọc độc lập, thuần thục, có kĩ năng và sáng tạo.
Với mong muốn “văn học gắn liền với cuộc đời” và giúp học sinh có kĩ năng, hứng thú, tích cực, chủ động trong giờ học đọc hiểu môn Ngữ văn nói riêng môn Ngữ văn nói chung , tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp dạy học nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc hiểu môn Ngữ văn 6 – Bài minh hoạ: Thạch Sanh”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học nâng cao hiệu quả giờ dạy đọc hiểu môn Ngữ văn 6 – Bài minh hoạ “Thạch Sanh“ (bộ sách Kết nối tri thức)

PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ngày 24/01/2018 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc, tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Môn Ngữ văn là một trong những môn quan trọng trong chương trình trung học cơ sở và trung học phổ thông bởi vì nó có tác động rất lớn đến việc giúp học sinh có một vốn tri thức về văn hóa ứng xử và giao tiếp trong cuộc sống. Dạy học sinh đọc hiểu văn bản ở nhà trường phổ thông trước hết là để trang bị kiến thức cho người học một nền tảng kiến thức cơ bản của bộ môn. Dạy văn là dạy người, dạy cái hay, cái đẹp. Hiểu văn cũng là hiểu người, hiểu đời và hiểu chính bản thân mình. Đọc hiểu văn bản trong nhà trường thực ra là bước chuẩn bị hành trang quan trọng để học sinh “đọc” một “văn bản” rộng lớn hơn rất nhiều đó- là cuộc đời, tương lai rộng mở trước mắt. Đích đến đã rõ ràng. Còn lại là hành trình của cuộc đi đòi hỏi người giáo viên không ngừng tìm tòi sáng tạo để từng bước chuyển giao vai trò độc lập, tự chủ trong hoạt động của học sinh. Đặc biệt việc tiếp cận văn bản đọc hiểu trong môn Ngữ văn theo các cách thức khác nhau ở mỗi giai đoạn của quá trình đọc hiểu là một trong những biện pháp để quá trình nhận thức, chiếm lĩnh kiến thức của học sinh trở nên tích cực, chủ động, hiệu quả. Đây chính là một “bước đệm” quan trọng, là cây cầu nối không thể thiếu để bạn đọc từng bước trở thành một người đọc độc lập, thuần thục, có kĩ năng và sáng tạo. Với mong muốn “văn học gắn liền với cuộc đời” và giúp học sinh có kĩ năng, hứng thú, tích cực, chủ động trong giờ học đọc hiểu môn Ngữ văn nói riêng PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở nghiên cứu. Ngày 05/5/2006, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 16/2006/BGDĐT nêu rõ những định hướng đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học. Trong những năm qua, Bộ GD&ĐT đã trực tiếp chỉ đạo việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong đó, yêu cầu giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh, hướng dẫn phương pháp tự học cho các em. Theo Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.[12, tr12]. Trong đổi mới phương pháp dạy học cần cần kế thừa, phát triển những mặt tích cực trong hệ thống phương pháp dạy học đã quen thuộc, đồng thời cũng phải học hỏi, vận dụng một số phương pháp dạy học mới, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện dạy và học ở nước ta để giáo dục từng bước trở lên vững chắc. Mặt khác, nói đến phương pháp dạy học là nói đến cách dạy của người thầy. Trong chương trình giáo dục phổ thông, Ngữ văn là một môn học có vị trí quan trọng. Vì đây là môn học vừa mang tính công cụ, vừa là môn học mang tính nghệ thuật, lại là môn học mang tính nhân văn rất cao. Bởi vậy, để học sinh học tốt môn Ngữ Văn ở trường phổ thông nói chung, người giáo viên phải chú trọng đến phương pháp dạy học, phải tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu và áp dụng những hình thức, biện pháp tổ chức dạy học mới, hiện đại, sinh động, đưa học sinh đến với môn học này một cách tự giác, bằng niềm say mê thật sự. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu của môn học mang đậm tính nhân văn này. 2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu. Mặc dù nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, nhân dân cùng các bậc phụ huynh, nhưng với vị trí là một trường học vùng ven sông nên việc triển khai CTGDPT 2018 và dạy SGK mới với lớp 6 vẫn còn ngổn ngang khó khăn về cơ sở vật chất do nhà trường chưa đạt chuẩn Quốc gia, không có phòng học chức năng; phòng học còn thiếu nên phải tận dụng phòng bộ môn thành lớp học. Một số bậc phụ huynh bận công việc, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình, luôn có tư tưởng giao phó cho thầy cô. Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi gamengày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng việc học tập. Việc đọc văn bản văn học được coi là là cánh cửa khám phá thế giới, trải nghiệm những trạng thái, cảnh ngộ khác nhau của con người, phát hiện những vẻ đẹp khuất lấp, những rung động phong phú Đọc cũng là quá trình giao tiếp nghệ thuật, lắng nghe tiếng nói, quan điểm, cách nhìn nhận đời sống của các nhân vật, của nhà văn, nhà thơ, của mỗi thời đại, đồng thời bổ sung, chia sẻ, suy ngẫm, về những điều lĩnh hội được từ văn bản. Thế nhưng việc này lại đang bị hầu hết các em học sinh xem nhẹ, dẫn tới việc hiểu chưa sâu, chưa đầy đủ, toàn diện, thậm chí hiểu sai về tác phẩm. Đặc biệt hậu quả nghiêm trọng hơn đó là khiến các em HS có cái nhìn sai lệch về bộ môn Ngữ văn, khiến các em chán nản khi tiếp cận bộ môn này. Đối với học sinh lớp 6, ngoài háo hức bước sang môi trường mới, đón thêm niềm vui, phần lớn các em phải đối mặt những khó về vấn đề học tập, do sự khác biệt rất nhiều so với chương trình, phương pháp học tập ở Tiểu học. Đặc biệt, các em lại là lớp học sinh chịu nhiều ảnh hưởng của dịch Covid 19,thời gian chuyển cấp diễn ra khi đất nước mới trở lại bình thường, vẫn còn nhiều khó khăn. Các em vừa phải học tập, nâng cao những nội dung, kiến thức đã học ở Tiểu học vừa phải tiếp nhận một lượng kiến thức mới theo chương trình khác hoàn toàn Tiểu học. 2.3 Nội dung và kết quả điều tra thực trạng - Đây là mô hình dạy học kết hợp. Ở đó, người học thể hiện được sự tích cực, tự chủ và trách nhiệm. - Thay đổi vai trò của người dạy và người học. Người giáo viên xây dựng kế hoạch bài dạy dưới nhiều hình thức (video, bài giảng điện tử, giáo án lên lớp, giáo viên hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó học sinh sẽ tự tìm hiểu tài liệu tại nhà, lên lớp để thực hành và thảo luận với các bạn cùng lớp. Các công việc cần thực hiện trong mô hình lớp học đảo ngược. - Cấu trúc của mô hình lớp học đảo ngược: Lớp học đảo ngược được chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Tìm hiểu thông tin mới: Giai đoạn này diễn ra hoàn toàn ở nhà. Giáo viên và học sinh sẽ tự làm việc hoặc học tập một mình. Nhiệm vụ của giáo viên và học sinh ở giai đoạn 1 cụ thể như sau: Giáo viên: Tìm hiểu thông tin, xác định nội dung, mục tiêu bài học, chuẩn bị bài giảng hấp dẫn cho học sinh. Sau đó, giáo viên quay video bài giảng và cung cấp học liệu cho học sinh qua mạng in – tơ - nét. Học sinh: Xem video bài giảng, đọc sách và tài liệu, học các kiến thức mà giáo viên đã gửi, ghi chép lại các kiến thức thu nhận được, tự làm quiz, bài tập cấp thấp. 3.1.3 Minh họa Bài 7:THẾ GIỚI CỔ TÍCH TIẾT 87: THẠCH SANH (TIẾT 2) Khi hướng dẫn HS tìm hiểu về nhân vật Thạch Sanh và Lý Thông trong văn bản tôi đã tiến hành như sau: I. MỤC TIÊU 1. Kiến thức - Đặc điểm về nhân vật và sự việc trong truyện cổ tích “Thạch Sanh” - Nghệ thuật xây dựng nhân vật, phương pháp tìm hiểu nhân vật trong truyện cổ tích 2. Năng lực - Đọc, kể sáng tạo - Đọc hiểu văn bản truyện cổ tích theo đặc trưng thể loại - Cảm nhận, phân tích nhân vật trong truyện cổ tích - Nhận diện đặc sắc nghệ thuật trong truyện cổ tích - Liên hệ, mở rộng kiến thức liên quan đến tác phẩm - Một số năng lực khác: Năng lực sử dụng ngôn ngữ, hợp tác, thảo luận, giải quyết vấn đề, tự chủ, sáng tạo... 3. Phẩm chất: - Sống vị tha, yêu thương con người, trung thực, khiêm tốn, không tham lam, bội bạc - Sống có ước mơ, khát vọng, vượt qua khó khăn, thử thách HOẠT ĐỘNG CỦA GV – HS DỰ KIẾN SẢN PHẨM - GV chiếu nhiệm vụ đã giao ở nhà A. Tri thức ngữ văn cho HS tìm hiểu trong tiết học trước. B. Đọc hiểu văn bản * GV tổ chức HS thảo luận nhóm I. Đọc – tìm hiểu chung tìm hiểu về nhân vật Lý Thông và II. Khám phá văn bản Thạch Sanh theo PHT. Thời gian 5 1. Cốt truyện việc khi làm văn tự sự. ? Để xây dựng hình tượng nhân * Nghệ thuật vật Thạch Sanh và Lý Thông, tác giả - Mô tip người dũng sĩ dân gian đã sử dụng thành công - Tương phản, tăng cấp những nghệ thuật gì? - Đối lập - HS trả lời cá nhân - Yếu tố kì ảo - GV nhận xét, kết luận NHÓM 1: NHÓM 2: Tìm hiểu về nhân vật Lý Thông Tìm hiểu về nhân vật Thạch Sanh: HS Phạm Nhật Nam lớp 6A2 đại diện HS Nguyễn Thị Bảo Chinh và Hoàng Đức nhóm trình bày kết quả thảo luận của Lâm lớp 6A2 đại diện nhóm trình bày kết nhóm mình. quả thảo luận của nhóm mình dưới hình thức nhập vai nhân vật Thạch Sanh tự kể về cuộc đời của mình. chức các góc: viết; đọc; vẽ tranh: xem băng hinh; thảo luận...về nội dung chủ đề. 3.2.2. Cách thức tiến hành - Bước 1: GV xác định mục tiêu, nội dung hoạt động - Bước 2: GV sắp xếp, phân loại, chia HS ngồi theo vị trí phù hợp. - Bước 3: GV giao nhiệm vụ cụ thể theo từng góc - Bước 4: HS chuẩn bị, thực hiện nhiệm vụ và chuẩn bị báo cáo kết quả. - Bước 5: Các nhóm trình bày kết quả 3.2.3. Minh họa Trong tiết “Thạch Sanh” giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu thế giới kì ảo trong truyện cổ tích với góc truyền hình: Cuộc trò chuyện văn học với chủ đề: “Thế giới kì ảo trong truyện cổ tích. Giáo viên yêu cầu HS đại diện góc truyền hình lên tổ chức chương trình giao lưu cùng các bạn HS trong lớp và chia sẻ kiến thức, hiểu biết mà nhóm mình đã tìm hiểu về thế giới kì ảo trong truyện cổ tích của nhóm. Học sinh các nhóm lắng nghe, trao đổi, thảo luận. Hết thời chương trình trò chuyện, giáo viên nhận xét, đánh giá và chốt kiến thức. Bài chia sẻ của HS Lã Bảo Trâm lớp 6A2 Bài chia sẻ của HS Nguyễn Hồng về cô bé 7 tuổi người Syria. Anh về bố của mình. 3.2.4. Kết quả hoạt động Như vậy, phương pháp dạy học theo góc đã giúp học sinh vừa chủ động khái quát,nắm vững kiến thức, liên hệ thực tế, vừa mở rộng nâng cao kiến thức, phát triển khả năng tư duy, độc lập sáng tạo, lại vừa phát triển khả năng nói và nghe. Học sinh hứng thú hơn trong giờ học. Từ đó có kĩ năng làm các dạng bài tập liên hệ thực tế, nghị luận xã hội. 3.3. Chuyển thể văn bản truyện thành tác phẩm truyện tranh. 3.3.1.Mô tả: - Chuyển thể văn bản truyện thành tác phẩm truyện tranh là hoạt động giúp HS phát triển các năng lực, phẩm chất tổng quát và đặc thù của bộ môn như: năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học, đáp ứng mục tiêu của chương trình GDPT 2018. - Bên cạnh đó cũng tạo thêm cách tiếp cận văn bản, hạn chế thực tế nhiều học sinh “ngại” đọc các văn bản dài, nhiều chữ nhưng lại mê đọc truyện tranh. Bài 7: CHUYỆN KỂ VỀ NHỮNG NGƯỜI ANH HÙNG Đọc hiểm văn bản 1: Thạch Sanh (Thời lượng: 3 tiết) Văn bản Thạch Sanh là truyện cổ tích có nhân vật gần gũi với học sinh lớp 6. Đặc biệt trong đó, các sự việc liên quan đến nhân vật rất rõ ràng cụ thể. Đây là lợi thế cho người dạy khi có kế hoạch định hướng phát triển năng lực học sinh thông qua hoạt động Chuyển thể văn bản truyện thành tác phẩm truyện tranh. Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ Khi dạy phần Vận dụng (tiết học thứ 3), tôi đã giao nhiệm vụ cho học sinh: - Nhiệm vụ: Kể sáng tạo truyện cổ tích Thạch Sanh bằng tranh - GV định hướng: học sinh có thể lựa chọn kể theo sự việc hoặc nhân vật. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ - HS tạo nhóm theo nhu cầu + Kể theo nhân vật: Nhân vật Thạch Sanh, nhân vật vua, nhân vật công chúa + Kể theo sự việc: Thạch Sanh tự giới thiệu về bản thân; Công chúa bị chim đại bàng bắt đi, - Tóm tắt sự việc dưới dạng sơ đồ tư duy (kịch bản) - Thực hiện vẽ nhân vật, sự việc theo trí tưởng tượng vớI bố cục phù hợp các lời thoại. - Hoàn thiện tác phẩm (lọc, tạo độ nét,) Bước 3: Báo cáo sản phẩm, nhận xét, đánh giá - Đại diện báo cáo sản phẩm hiện năng khiếu hội họa, phát triển năng lực thẩm mĩ. Khi thuyết trình, các em cũng rất tự tin, phát huy được năng lực làm việc nhóm, kĩ năng cần thiết khi phân chia công việc, tổng hợp kiến thưc và biên tập lời thoại nhân vật. Cách đổi mới này giúp việc học tập môn Ngữ Văn trở lên phong phú - Khắc sâu kiến thức một cách hiệu quả trong quá trình học sinh thực hiện nhiệm vụ. 3.4. Sân khấu hóa tác phẩm 3.4.1. Mô tả: Sân khấu hóa là hình thức dạy học hập dẫn, thu hút học sinh. Thay vì tiếp thu kiến thức theo lối truyền thống thì sân khấu hóa giúp học sinh được trải nghiệm thực tế. Để rồi qua quá trình nỗ lực nhập vai, các em được hóa thân vào nhân vật truyền thuyết, biết rung động và tự cảm nhận về nhân vật và tác phẩm. Qua đó, học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức đồng thời rèn luyện sự tự tin, kĩ năng làm việc nhóm, khả năng sáng tạo, phát huy năng khấu diễn xuất, ca hát Vì vậy học sinh có hứng thú hơn với môn Ngữ văn nói chung và các tác phẩm văn học dân gian nói riêng. 3.4.2. Cách thức tiến hành Bước 1: Giáo viên lựa chọn trong chương trình các tiết văn bản nghệ thuật giàu tính chất kịch để chọn một đoạn văn tiêu biểu và đắc sắc nhất (đối với tác phẩm dài) hoặc một tác phẩm bảo đảm tính giáo dục, phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh; hạn chế những chi tiết có nguy cơ hiểu lệch lạc, hiểu không đúng,.. Bước 2: Lựa chọn cách thức sân khấu hóa (kịch, hát, múa) và xây dựng kịch bản tương ứng. - Phân công công việc cụ thể cho từng học sinh hoặc nhóm học sinh và chuẩn bị đạo cụ phù hợp. - Dự kiến thời gian, địa điểm tiến hành sân khấu hóa. Bước 3: Hướng dẫn và giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ của học sinh Bước 4: Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm. - GV có thể đặt câu hỏi để kiểm tra hoặc khắc sâu kiến thức cho HS. 3.4.3. Minh họa: Sân khấu hóa truyện truyện cổ tích “Thạch Sanh”
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_hoc_nang_cao_hieu.doc