Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)

Như chúng ta đã biết: “Chương trình Giáo dục Phổ thông tổng thể của Bộ giáo dục và Đào tạo được xây dựng theo tiếp cận phát triển năng lực người học.” Trước những yêu cầu đó, ngành giáo dục bắt buộc phải thay đổi. Trong đó, giáo dục theo định hướng phát triển năng lực tức là lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ động, sáng tạo, khả năng tự học của học sinh; tăng cường tính tương tác trong dạy và học giữa thầy với trò, trò với trò và giữa các thầy giáo, cô giáo. Ngoài ra, giáo dục đang hướng tới một chương trình mới, sách giáo khoa mới được xây dựng theo hướng phát triển toàn diện trên mọi phương diện.

Quán triệt tinh thần và mục tiêu của Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như chuẩn bị cho công cuộc cải cách đổi mới nội dung, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã được triển khai từ năm học 2020 - 2021 cần đổi mới hình thức dạy học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh.

Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động tương ứng với chúng là bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Biết đọc, biết viết con người còn có khả năng giao tiếp với thế giới bên trong của người khác. Đặc biệt khi đọc, viết các tác phẩm văn chương, con người không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hoạt động, sức mạnh sáng tạo như được bồi dưỡng tâm hồn… Chính vì vậy, dạy đọc, dạy viết có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học, nó trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với người học. Đặc biệt đối với học sinh lớp 1, lớp học đặt nền móng trong suốt cuộc đời học tập của học sinh, nên việc dạy đọc, dạy viết cho các em là vô cùng quan trọng. Bởi các em có đọc thành thạo, to, rõ ràng; viết đúng, rõ ràng ở lớp 1. Có như vậy khi học các lớp tiếp theo, các em mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.

Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là phát triển năng lực hành động tức là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu biết, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Như vậy năng lực người học cần đạt là cơ sở để xác định các mục tiêu, nội dung, hoạt động, phương pháp …..dạy học mà người dạy cần phải căn cứ vào đó để tiến hành các hoạt động giảng dạy và giáo dục ( lấy người học làm trung tâm).

Năng lực đặc thù là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động. Đây cũng được xem như một năng khiếu, giúp các em mở rộng và phát huy bản thân mình nhiều hơn. Các năng lực đặc thù được rèn luyện và phát triển trong chương trình giáo dục phổ thông mới là: Ngôn ngữ, tính toán, khoa học, tin học, thể chất, thẩm mỹ, công nghệ.

Trong dạy học Tiếng Việt, năng lực hành động được hiểu là năng lực giải quyết một nhiệm vụ giao tiếp - năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp vừa là năng lực đặc thù của môn Tiếng Việt vừa là một năng lực chung mà trường học phải hình thành và phát triển đặc biệt đối với học sinh lớp 1.

* Ưu điểm của giải pháp:

- Giúp hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, viết- những kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh Tiểu học.

- Ngôn ngữ là công cụ của lời nói và tư duy. Dạy học tiếng Việt ở lớp 1 trước hết là dạy cho học sinh có khả năng sử dụng công cụ ấy một cách hiệu quả nhất trong học tập và đời sống.

- Đọc đúng, trôi chảy văn bản; hiểu được nội dung đơn giản của văn bản, chủ yếu là nội dung tường minh; bước đầu hiểu được nội dung hàm ẩn như chủ đề, bài học rút ra từ văn bản đã đọc.

- Giúp các em nhận biết được văn bản nói về ai, về cái gì; nhận biết được nhân vật trong các câu chuyện, vần trong thơ; nhận biết được truyện và thơ. Phân biệt văn bản truyện và thơ (đoạn, bài văn xuôi và đoạn, bài văn vần); nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết; bước đầu hiểu được tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn học (ngôn từ, nhân vật, cốt truyện, vần thơ…). Biết liên tưởng, tưởng tượng và diễn đạt có tính văn học trong viết và nói.

- Hướng tới phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho học sinh - năng lực tiếp nhận lời nói và năng lực sản sinh lời nói. Dạy tiếng Việt theo hướng phát triển năng lực chính là quá trình dạy học hướng tới hình thành và phát triển các năng lực sử dụng tiếng Việt cho người học trong môi trường học tập và đời sống theo lứa tuổi.

- Đọc tốt, nói tốt , nghe tốt giúp học sinh biết trình bày một vấn đề trước người khác hay thuyết trình trước đông người và năng lực viết (viết đúng chính tả, đúng ngữ pháp và trình bày được một văn bản viết có nội dung đúng mục đích hoặc theo yêu cầu của người khác, biết sắp xếp các từ thành câu…). Người hay chú ý lắng nghe người khác nói, hay tập trung đọc văn bản viết thường có khả năng nói, viết tốt hơn và ngược lại.

- Là một minh chứng cho việc chuyển từ hệ câu hỏi nặng về tái hiện, ghi nhớ (đọc nhớ) thành những bài tập phát huy liên cá nhân, phát triển tư duy sáng tạo, kích thích hứng thú, khả năng làm việc độc lập và hợp tác của học sinh.

* Tồn tại bất cập của giải pháp:

- Ở lớp 1 các em mới biết mặt chữ nên khi đọc còn phải đọc đánh vần từng tiếng, viết còn chậm. Vì vậy, việc đọc thông thạo, viết hoàn chỉnh được một văn bản là việc tương đối khó với các em.

- Nhiều văn bản dài, khả năng tiếp thu của các em học sinh trong lớp không đồng đều nên việc dạy theo hướng phát triển năng lực đặc thù của phân môn cũng gặp khó khăn.

- Phụ huynh vùng nông thôn ít quan tâm tới việc học của con em mà phần lớn ỷ lại thầy cô, giao phó cho thầy cô mà học sinh lớp 1 còn nhỏ cần phải có sự đồng hành nhắc nhở của cha mẹ.

- Trên thực tế, vì quan niệm cho rằng học sinh học tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ nên chúng ta thường nặng về phát triển khả năng đọc - hiểu văn bản của học sinh; trong khi năng lực nghe - hiểu (như nghe để có ý kiến phản hồi hay nghe người khác đọc, kể câu chuyện và kể lại hoặc tìm hiểu nội dung câu chuyện chẳng hạn) nhiều khi xuất hiện với tần suất khá lớn trong cuộc sống mỗi người nhưng lại chưa được chú ý, kể cả trong dạy học và đánh giá.

- Các em lớp 1 còn nhỏ nên việc trình bày các ý tưởng và cảm xúc; sử dụng cử chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản còn lúng túng.

- Trong dạy học các tri thức tiếng Việt, chúng ta đang quá tập trung vào nhận biết, phân tích, phân loại các đơn vị ngôn ngữ mà ít chú ý đến việc sử dụng chúng. Trong dạy học tập đọc, chúng ta đang quá tập trung vào nhận biết, tái hiện các tình tiết của văn bản (đọc nhớ) mà ít giải thích và đặc biệt ít dạy học sinh hồi đáp (đánh giá, liên hệ) nên chưa dạy học sinh đọc vận dụng, sáng tạo.

Từ những hạn chế và bất cập đã gặp trong giảng dạy, cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về phương pháp dạy tập đọc rèn, rèn viết cho học sinh đọc thông thạo các văn bản ở lớp 1.Với lòng đam mê được tìm hiểu, học hỏi thêm kinh nghiệm, từ mong muốn cải thiện thực tế nhà trường nên tôi đã chọn vấn đề : “ Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018làm sáng kiến kinh nghiệm của mình để góp phần giáo dục nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục.

docx 16 trang Thanh Ngân 29/08/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy học giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng Việt Lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 (bộ sách Kết nối tri thức)
 người khác nói hay tập trung đọc văn bản viết thường có khả năng nói, viết tốt hơn 
và ngược lại.
 - Là một minh chứng cho việc chuyển từ hệ câu hỏi nặng về tái hiện, ghi 
nhớ (đọc nhớ) thành những bài tập phát huy liên cá nhân, phát triển tư duy sáng 
tạo, kích thích hứng thú, khả năng làm việc độc lập và hợp tác của học sinh.
 * Những bất cập, hạn chế 
 - Ở lớp 1 các em mới biết mặt chữ nên khi đọc còn phải đọc đánh vần từng 
tiếng, viết còn chậm. Vì vậy, việc đọc thông thạo, viết hoàn chỉnh được một văn 
bản là việc tương đối khó với các em. Nhiều văn bản dài, khả năng tiếp thu của các 
em học sinh trong lớp không đồng đều nên việc dạy theo hướng phát triển năng lực 
đặc thù của phân môn cũng gặp khó khăn. 
 - Phụ huynh vùng nông thôn ít quan tâm tới việc học của con em mà phần 
lớn ỷ lại thầy cô, giao phó cho thầy cô mà học sinh lớp 1 còn nhỏ cần phải có sự 
đồng hành nhắc nhở của cha mẹ. 
 - Trên thực tế, vì quan niệm cho rằng học sinh học tiếng Việt với tư cách là 
tiếng mẹ đẻ nên chúng ta thường nặng về phát triển khả năng đọc - hiểu văn bản 
của học sinh; trong khi năng lực nghe - hiểu (như nghe để có ý kiến phản hồi hay 
nghe người khác đọc, kể câu chuyện và kể lại hoặc tìm hiểu nội dung câu chuyện 
chẳng hạn) nhiều khi xuất hiện với tần suất khá lớn trong cuộc sống mỗi người 
nhưng lại chưa được chú ý, kể cả trong dạy học và đánh giá.
 - Các em lớp 1 còn nhỏ nên việc trình bày các ý tưởng và cảm xúc; sử dụng 
cử chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, 
đã nghe; biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với 
những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn 
giản còn lúng túng.
 - Sĩ số lớp đông và mặt bằng nhận thức của các em không đồng đều. Học 
sinh còn nhỏ, tinh thần tập trung chú ý chưa cao, đôi khi các em còn hiếu động nên 
tiết học khó ổn định và khó trong việc đảm bảo thời gian tiết học. Học sinh thường 
phân tán chú ý, mất tập trung, chưa chủ động tìm hiểu kiến thức khi tham gia các 
hoạt động
 * Giải pháp khắc phục:
 - Giáo viên cần nắm vững năng lực đặc thù của môn Tiếng Việt, nắm vững 
 nội dung kiến thức của môn học và mục tiêu cần đạt của từng bài để xây dựng kế 
 hoạch bài dạy cho phù hợp với học sinh.
 - Giáo viên cần xây dựng và tổ chức dạy học linh động phù hợp với tình 
 hình thực tế của lớp học...
 - Giáo viên cần nghiên cứu kĩ mục tiêu và kế hoạch bài dạy.
 - Giáo viên cần tìm hiểu tâm lí học sinh lớp 1, đưa ra các hình thức và phương 
 pháp lôi cuốn học sinh.
 - Động viên, khen học sinh kịp thời khi học sinh có tiến bộ.
 2. Tóm tắt nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
 - Tính mới, tính sáng tạo:
 Phát triển được năng lực đặc thù cho học sinh trong môn Tiếng Việt giúp 
 ngôn ngữ của học sinh được phát triển thông qua các hoạt động của giáo viên. Đổi 
 mới được phương pháp giảng dạy lấy học sinh là trung tâm của hoạt động giáo UBND HUYỆN VĨNH BẢO
 TRƯỜNG TIỂU HỌC THỊ TRẤN VĨNH BẢO
 BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
 Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy học 
giúp phát triển năng lực đặc thù môn Tiếng 
 Việt lớp 1 theo chương trình GDPT 2018”
 Tác giả: Trần Thị Thuỳ Linh – Phạm Thị Chinh 
 Trình độ chuyên môn: Đại học
 Chức vụ : Giáo viên
 Nơi công tác : Trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo 
 Ngày 06 tháng 1 năm 2024 dưỡng tâm hồn Chính vì vậy, dạy đọc, dạy viết có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học, 
nó trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với người học. Đặc biệt đối với học 
sinh lớp 1, lớp học đặt nền móng trong suốt cuộc đời học tập của học sinh, nên 
việc dạy đọc, dạy viết cho các em là vô cùng quan trọng. Bởi các em có đọc thành 
thạo, to, rõ ràng; viết đúng, rõ ràng ở lớp 1. Có như vậy khi học các lớp tiếp theo, 
các em mới có thể đáp ứng được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.
 Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là phát triển năng lực hành 
động tức là khả năng thực hiện có trách nhiệm và hiệu quả các hành động, giải 
quyết các nhiệm vụ, các vấn đề trong những tình huống khác nhau trên cơ sở hiểu 
biết, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành động. Như vậy năng lực 
người học cần đạt là cơ sở để xác định các mục tiêu, nội dung, hoạt động, phương 
pháp ..dạy học mà người dạy cần phải căn cứ vào đó để tiến hành các hoạt động 
giảng dạy và giáo dục ( lấy người học làm trung tâm).
 Năng lực đặc thù là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ 
sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình 
hoạt động, công việc hoặc tình huống, môi trường đặc thù, cần thiết cho những 
hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động. Đây cũng 
được xem như một năng khiếu, giúp các em mở rộng và phát huy bản thân mình 
nhiều hơn. Các năng lực đặc thù được rèn luyện và phát triển trong chương trình 
giáo dục phổ thông mới là: Ngôn ngữ, tính toán, khoa học, tin học, thể chất, thẩm 
mỹ, công nghệ. 
 Trong dạy học Tiếng Việt, năng lực hành động được hiểu là năng lực giải 
quyết một nhiệm vụ giao tiếp - năng lực giao tiếp. Năng lực giao tiếp vừa là năng 
lực đặc thù của môn Tiếng Việt vừa là một năng lực chung mà trường học phải 
hình thành và phát triển đặc biệt đối với học sinh lớp 1.
 * Ưu điểm của giải pháp:
 - Giúp hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng đọc, viết- những kỹ 
năng quan trọng hàng đầu của học sinh Tiểu học. 
 - Ngôn ngữ là công cụ của lời nói và tư duy. Dạy học tiếng Việt ở lớp 1 
trước hết là dạy cho học sinh có khả năng sử dụng công cụ ấy một cách hiệu quả 
nhất trong học tập và đời sống.
 - Đọc đúng, trôi chảy văn bản; hiểu được nội dung đơn giản của văn bản, 
chủ yếu là nội dung tường minh; bước đầu hiểu được nội dung hàm ẩn như chủ 
đề, bài học rút ra từ văn bản đã đọc.
 - Giúp các em nhận biết được văn bản nói về ai, về cái gì; nhận biết được 
nhân vật trong các câu chuyện, vần trong thơ; nhận biết được truyện và thơ. Phân 
biệt văn bản truyện và thơ (đoạn, bài văn xuôi và đoạn, bài văn vần); nhận biết 
được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết; bước đầu hiểu được 
tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn học (ngôn từ, nhân vật, cốt 
truyện, vần thơ). Biết liên tưởng, tưởng tượng và diễn đạt có tính văn học trong 
viết và nói.
 - Hướng tới phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt cho học sinh - năng lực 
tiếp nhận lời nói và năng lực sản sinh lời nói. Dạy tiếng Việt theo hướng phát triển 
năng lực chính là quá trình dạy học hướng tới hình thành và phát triển các năng III.1 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
 1. Giải pháp 1: Tổ chức dạy học cá nhân, nhóm 
 - Dạy học chú trọng tới từng học sinh nhằm giúp các em có tinh thần trách 
nhiệm với việc học và lên kế hoạch sử dụng quỹ thời gian hợp lý trong từng hoạt 
động học tập cuả cá nhân, đây là một kỹ năng khó để thành thạo đối với các em, 
vì vậy giáo viên cần kiên trì và luôn sẵn sàng giúp đỡ, hỗ trợ học sinh, khuyến 
khích làm việc nhóm, giáo viên phải nhớ rằng làm việc độc lập không có nghĩa là 
làm việc một mình mà có sự hợp tác cùng phát triển.
 - Trong mỗi tiết học, khi giáo viên phát hiện dấu hiệu học sinh mệt mỏi cần 
thay đổi không khí lớp học như cho học sinh đứng dậy và di chuyển hoặc giải lao 
nhẹ. Cũng như cơ bắp, bộ não cũng cần được nghỉ ngơi và duy trì bầu không khí 
tích cực và tạo ra một môi trường thúc đẩy học tập bằng cách đưa ra những phản 
hồi, góp ý và ghi nhận nỗ lực của học sinh.
 - Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành 
trải nghiệm, vận dụng kiến thức vào thực tiễn với các nội dung:
 + Làm cho trẻ hiểu được điều sai để nhận ra đúng.
 + Không nên kết luận quá sớm.
 + Cho trẻ giải thích kết quả của mình.
 + Ứng xử cho phù hợp không áp đặt.
 - Lập kế hoạch cho hình thức dạy học, giáo viên chọn hình thức dạy học 
phù hợp nhằm lôi cuốn học sinh vào các hoạt động đọc bài. Tạo cho học sinh 
không khí thoải mái, mạnh dạn tự tin khi đọc bài một cách tự nhiên.Từ đó rèn cho 
học sinh tính cẩn thận thái độ học tập và xây dựng bài tích cực
 - Chú trọng kết hợp các hình thức dạy học: nhóm, cá nhân, cả lớp, tổ, dãy 
phù hợp với từng việc.
 Ví dụ: Khi dạy học vần bài op, ôp, ơp. Hoạt động luyện đọc tôi đã cho học 
sinh luyện đọc cá nhân, tổ, nhóm, các nhóm tự nhận xét lẫn nhau, học sinh tự chia 
sẻ nhận xét bạn, nhận xét mình, để rèn cho học sinh nhớ vần và đọc được các 
tiếng, từ, câu một cách nhanh nhất.
 2. Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch bài dạy và chuẩn bị đồ đùng dạy học- 
ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học.
 - Lập kế hoạch cho hình thức dạy học, giáo viên chọn hình thức dạy học 
phù hợp nhằm lôi cuốn học sinh vào các hoạt động đọc bài. Tạo cho học sinh 
không khí thoải mái, mạnh dạn tự tin khi đọc bài một cách tự nhiên.Từ đó rèn cho 
học sinh tính cẩn thận thái độ học tập và xây dựng bài tích cực
 - Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài dạy, nắm chắc mục đích, yêu cầu kiến 
thức, kĩ năng, chỉ ra rõ yêu cầu phát triển năng lực chung, năng lực đặc thù của 
bài dạy là gì, thể hiện ở hoạt động nào của bài học từ đó chọn ra những phương 
pháp tối ưu để tiết dạy đạt hiệu quả cao nhất..
 - GV cần nghiên cứu kĩ tài liệu, soạn bài phù hợp với đối tượng học sinh. 
Khi trình bày giáo án GV cần thể hiện rõ các hoạt động của thầy và trò.Sự chuẩn 
bị kĩ lưỡng, chu đáo, đầy đủ giúp GV xác định được chuẩn về kiến thức lựa chọn 
được đúng phương pháp và tự chủ từng bước các hoạt động đồng thời giúp người 
thầy thêm tự tin và sáng tạo để tổ chức tiết dạy một cách nhẹ nhàng, tự nhiên và 
có hiệu quả. thanh đặc biệt do ảnh hưởng của phương ngữ địa phương nên học sinh đọc ngọng n/l, 
thanh ngã với thanh sắc. 
 - Giáo viên cũng nên để cho học sinh thảo luận tìm ra những từ mà các em 
cảm thấy khó đọc trong khi phát âm. 
 - Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích tiếng 
để giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần tập trung 
gọi những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này đọc được đúng thì 
việc gọi một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là một việc làm không thể thiếu 
bởi vì các em yếu sẽ bắt chước các bạn để đọc, và như vậy các em sẽ có ý thức tự 
sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường cho các 
em nhận xét nhau đọc, đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại 
cho bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời uốn nắn 
sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời.
 - Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết Tiếng 
Việt linh hoạt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để 
giúp các em phát âm tốt hơn.
 Ví dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu, vần hay sai do phương 
ngữ của vùng miền
 + Bài tập 1: Điền l hay n?
 Quả .a , ....o lắng , trời ....ắng 
 + Bài tập 2: Điền r, d, gi?
  ộn.ã , ..ập .ờn , tháng..iêng
 + Bài tập 3: Điền s, x?
 ản uất , anh.anh, o.ánh, ung phong , .ừngững
 + Bài tập 4: Điền vần anh hay ăn?
 ch.. len, c. đẹp , c nhà, m. khoẻ, bức tr.
 và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong, giáo viên 
phải yêu cầu và kiểm tra các em đọc. Nếu các em đọc sai giáo viên phải kịp thời 
uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc 
kỹ sẽ giúp cho các em hình thành và phát triển năng lực đọc trơn bài đọc tốt hơn.
 * Luyện đọc theo văn bản:
 + Đối với văn bản thơ
 Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một 
cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình 
cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến 
người nghe. Khi đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc 
thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được 
đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh 
mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. 
Học sinh tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi 
dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường đưa lên màn hình các câu thơ 
cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn.
 Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài. - Bước 1: Xác định cấu tạo chữ viết.
 + Xác định toạ độ và chiều hướng chữ. Toạ độ chữ được xác định trên đường 
kẻ ngang của vở tập viết. Cách xác định toạ độ trên khung chữ phải dựa vào đường 
kẻ dọc, đường kẻ ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là trong những điều 
kiện để dạy chữ viết thành một quy trình. 
 + Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút 
có thể nằm trên đường kẻ ngang, hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
 - Bước 2: Xác định kĩ thuật đưa bút:
 + Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với nét chữ vừa viết. 
Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn) chạy nhẹ từ điểm kết 
thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
 - Bước 3: Áp dụng một số phương pháp dạy tập viết:
 + Phương pháp trực quan
 + Phương pháp đàm thoại gợi mở
 + Phương pháp luyện tập:
 - Tập viết chữ ( Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp.
 - Tập viết chữ vào bảng con của học sinh. 
 - Luyện viết trong vở.
 - Bước 4: Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp. 
 - Bước 5: Thực hiện ngồi đúng tư khi viết.
 4. Giải pháp 4: Chú trọng phát triển phẩm chất cho học sinh: yêu nước, 
nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.
 - Dạy học môn Tiếng Việt chú trọng phát triển phẩm chất yêu nước, nhân 
ái, chăm chỉ, trung thực trách nhiệm được lồng ghép qua từng bài học trong các 
chủ điểm.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Ngôi nhà” qua phần tìm hiểu bài giáo dục học sinh tình 
yêu quê hương đất nước qua tình cảm đối với những thứ thân thuộc gần gũi ở làng 
quê. Giáo viên có thể tích hợp môn Hát Nhạc, Mĩ Thuật bằng cách cho học sinh 
vẽ tranh hoặc hát bài bát thể hiện tình cảm của mình với quê hương đất nước.
 - Giáo dục lòng nhân ái cho học sinh qua một số hoạt động khác như: ủng 
hộ các bạn học sinh vùng sâu xa, học sinh vùng bão lũ, học sinh nghèo vượt khó 
 - Từ những quan sát và những công việc bạn làm, công việc mình tự làm, 
giáo dục cho các em có ý thức tự giác tham gia các việc vừa sức giúp bố mẹ và 
những việc của trường, của lớp; chăm chỉ, sẵn sàng giúp đỡ các bạn gặp khó khăn.
 - Khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài, biết vận dụng đúng các nguyên 
tắc và phương pháp giáo dục và dạy học sẽ giúp học sinh đi từ mức độ dễ đến 
khó, từ đơn giản đến phức tạp và nâng cao dần, sẽ tập luyện cho học sinh thói 
quen vượt khó để hoàn thành nhiệm vụ học tập, bước đầu hoàn thành các phẩm 
chất ý chí, các nét tính cách tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm của mình.
 - Trong quá trình học tập cùng nhau, các mối quan hệ về lợi ích giữa cá 
nhân với tập thể sẽ hình thành tinh thần đoàn kết gắn bó với nhau vì lợi ích chung 
cũng sẽ phát triển nâng cao dần. Giáo dục học sinh phải nói thât, nói đúng về sự 
viêc, không nói dối, nói sai về người khác. Trên cơ sở đó tạo cho các em có tính 
trung thực, kỉ luât và đoàn kết cao
 III.2. Tính mới, tính sáng tạo:

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_hoc_giup_phat_tri.docx