Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh tiếp cận các văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ văn 8
Trong nhiều năm trở lại đây, các phương pháp dạy học theo hướng tích cực đã được chú trọng (kể cả việc ứng dụng công nghệ thông tin). Việc đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy khiến người giáo viên đứng lớp cần đổi mới cách dạy học, đầu tư nhiều hơn trong quá trình giảng dạy. Trên thực tế, việc giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở trường THCS lại gặp không ít khó khăn, phần nhiều giáo viên e ngại giảng dạy các văn bản này. Việc rút ngắn khoảng cách để học sinh dễ dàng tiếp nhận nội dung văn bản là điều không đơn giản ( nhất là với thế hệ giáo viên trẻ khi vốn kiến thức, hiểu biết văn hóa thời trung đại còn hạn chế). Bản thân giáo viên cũng còn nhiều lúng túng khi khai thác các tác phẩm văn học cổ nhất là về mặt từ ngữ. Các tác phẩm giai đoạn này hay dùng điển tích, điển cố và để cho học sinh hiểu thấu đáo được phải giải thích thành một câu chuyện dài. Cũng có khi giáo viên chưa hiểu hết ý nghĩa của các điển cố đó vì chưa có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu kĩ càng vì vậy việc giải thích không thể giải thích cho học sinh hiểu thấu đáo được. Trong quá trình giảng dạy văn học trung đại, giáo viên thường chỉ chú ý khai thác nội dung làm toát lên những quan điểm tư tưởng của tác giả đề cập mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của tác phẩm cũng như các vấn đề có liên quan khác, vì thế việc dạy các tác phẩm nghị luận thường khô, không hấp dẫn. Hơn nữa có một thực tế phổ biến là học sinh không có hứng thú khi học văn học Việt Nam trung đại, tình trạng ngại đọc sách, nghiên cứu tài liệu và không say mê với việc tìm hiểu những vấn đề thuộc lĩnh vực trừu tượng này trở nên không còn hiếm ở các lớp. Bên cạnh đó cái hay mỗi thời mỗi khác, có những cái mà quan niệm xưa cho là hay là đẹp thì nay đã trở nên xa lạ, nếu không có vốn tri thức nhất định về văn hóa, văn học thì không thể hiểu được, vì thế các em không dễ có tâm thế sẵn sàng tiếp nhận văn bản đã ra đời cách nay nhiều thế kỉ.
Do đặc thù lịch sử nước ta và tính chất của văn nghị luận trung đại được coi trọng. Việc dạy - học văn nghị luận thật khó, dạy - học văn nghị luận ở cấp trung học cơ sở, cụ thể là ở lớp 8, lại càng khó hơn. Từ tình hình thực tế, bản thân tôi sau nhiều năm lên lớp, luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào để có thể giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại đạt hiệu quả? Làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm văn học Việt Nam trung đại đễ dàng hơn? Từ việc tìm tòi, đúc kết kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy những năm qua của bản thân và đông nghiệp, tôi đã cố gắng điều chỉnh, vận dụng việc đổi mới phương pháp dạy – học. Tôi nhận thấy học sinh học văn học Việt Nam trung đại khả quan hơn, hứng thú hơn. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm trong việc “Hướng dẫn học sinh tiếp cận các văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ văn 8”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh tiếp cận các văn bản nghị luận trung đại trong chương trình Ngữ văn 8

2 1. Tªn s¸ng kiÕn: HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIẾP CẬN CÁC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8 2. LÜnh vùc ¸p dông s¸ng kiÕn: Trêng THCS Minh T©n 3. Thêi gian ¸p dông s¸ng kiÕn: Tõ ngµy...th¸ng ..n¨m ®Õn ngµy th¸ng n¨m 2018 4. T¸c gi¶: Hä vµ tªn: Ph¹m ThÞ Hång L¬ng N¨m sinh: 1976 N¬i thêng tró: Hoµng- Minh T©n- Vô B¶n- Nam §Þnh Tr×nh ®é chuyªn m«n: §¹i häc s ph¹m Ng÷ v¨n Chøc vô c«ng t¸c: Gi¸o viªn N¬i lµm viÖc: Trêng THCS Minh T©n §iÖn tho¹i: 0948258776 TØ lÖ ®ãng gãp t¹o ra s¸ng kiÕn.% 5. §ång t¸c gi¶( NÕu cã) Hä vµ tªn: N¨m sinh: N¬i thêng tró: Tr×nh ®é chuyªn m«n: Chøc vô c«ng t¸c: N¬i lµm viÖc: §iÖn tho¹i: TØ lÖ ®ãng gãp t¹o ra s¸ng kiÕn.% 6. §¬n vÞ ¸p dông s¸ng kiÕn: Tªn ®¬n vÞ: Trêng THCS Minh T©n §Þa chØ Minh T©n – Vô B¶n- Nam §Þnh §iÖn tho¹i 4 giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở trường THCS lại gặp không ít khó khăn, phần nhiều giáo viên e ngại giảng dạy các văn bản này. Việc rút ngắn khoảng cách để học sinh dễ dàng tiếp nhận nội dung văn bản là điều không đơn giản ( nhất là với thế hệ giáo viên trẻ khi vốn kiến thức, hiểu biết văn hóa thời trung đại còn hạn chế). Bản thân giáo viên cũng còn nhiều lúng túng khi khai thác các tác phẩm văn học cổ nhất là về mặt từ ngữ. Các tác phẩm giai đoạn này hay dùng điển tích, điển cố và để cho học sinh hiểu thấu đáo được phải giải thích thành một câu chuyện dài. Cũng có khi giáo viên chưa hiểu hết ý nghĩa của các điển cố đó vì chưa có điều kiện nghiên cứu, tìm hiểu kĩ càng vì vậy việc giải thích không thể giải thích cho học sinh hiểu thấu đáo được. Trong quá trình giảng dạy văn học trung đại, giáo viên thường chỉ chú ý khai thác nội dung làm toát lên những quan điểm tư tưởng của tác giả đề cập mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của tác phẩm cũng như các vấn đề có liên quan khác, vì thế việc dạy các tác phẩm nghị luận thường khô, không hấp dẫn. Hơn nữa có một thực tế phổ biến là học sinh không có hứng thú khi học văn học Việt Nam trung đại, tình trạng ngại đọc sách, nghiên cứu tài liệu và không say mê với việc tìm hiểu những vấn đề thuộc lĩnh vực trừu tượng này trở nên không còn hiếm ở các lớp. Bên cạnh đó cái hay mỗi thời mỗi khác, có những cái mà quan niệm xưa cho là hay là đẹp thì nay đã trở nên xa lạ, nếu không có vốn tri thức nhất định về văn hóa, văn học thì không thể hiểu được, vì thế các em không dễ có tâm thế sẵn sàng tiếp nhận văn bản đã ra đời cách nay nhiều thế kỉ. Do đặc thù lịch sử nước ta và tính chất của văn nghị luận trung đại được coi trọng. Việc dạy - học văn nghị luận thật khó, dạy - học văn nghị luận ở cấp trung học cơ sở, cụ thể là ở lớp 8, lại càng khó hơn. Từ tình hình thực tế, bản thân tôi sau nhiều năm lên lớp, luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào để có thể giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại đạt hiệu quả? Làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm văn học Việt Nam trung đại đễ dàng hơn? Từ việc tìm tòi, đúc kết kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy những năm qua của bản thân và đông nghiệp, tôi đã cố gắng điều chỉnh, vận dụng việc đổi mới phương 6 học sinh tiếp cận tính khách quan của tác phẩm vừa truyền lại những rung cảm của tác phẩm với tư cách là một sáng tạo nghệ thuật thực sự. B. C¬ së thùc tiÔn Trên thực tế, qua chương trình Ngữ văn lớp 7 các em đã được làm quen với các văn bản nghị luận trung đại nhưng đều là các văn bản thơ và phần lớn các bài thơ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phong các thơ Đường ( Trung Quốc). Đến chương trình Ngữ văn 8 các em sẽ được tiếp nhận bốn văn bản chính luận Việt nam trung đại: Chiếu dời đô ( Thiên đô chiếu) của Lí công Uẩn, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Nước Đại Viết ta ( trích Bình Ngô Đại Cáo) của Nguyễn Trãi, Bàn luận về phép học ( Luận học pháp) của Nguyễn Thiếp. Đây là những văn bản đặc sắc viết về những vấn đề trọng đại của quốc gia. Vì vậy với học sinh lớp 8, bốn văn bản với bốn thể loại khác nhau là những kiến thức vừa mới lại vừa khó mặc dù trong quá trình giảng dạy giáo viên luôn có ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ dạy học song những “ rào cản” về thời đại, tình trạng ngại đọc sách, đọc tài liệu và không say mê với việc tìm hiểu những vấn đề thuộc lĩnh vực trừu tượng, khô khan này đã và đang làm cho quá trình tiếp nhận các văn bản trung đại trở nên khó khăn, giờ học chỉ mang tính một chiều, không còn hứng thú. C. Néi dung thùc hiÖn 1. Chuẩn bị cho tiết dạy – học. Việc chuẩn bị cho tiết dạy là một bước rất quan trọng. Đối với một giờ dạy văn bản văn học trung đại: - Giáo viên cần đọc kĩ văn bản, nghiên cứu tài liệu về lịch sử có liên quan đến tác giả, tác phẩm; nắm vững các chú thích, các điển tích, điển cố có trong bài; tìm tranh ảnh có liên quan để hỗ trợ tiết dạy; lưu ý hệ thống kiến thức cần truyền đạt để xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lý. Giáo viên cần chú trọng vào việc tạo tâm lý, gây hứng thú cho học sinh ngay từ đầu văn bản để học sinh có nhu cầu tiếp nhận nội dung; sau mỗi văn bản giáo viên cần lập sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức để học sinh nhớ bài học. Chẳng hạn khi dạy bài Chiếu dời 8 Từ đó giới thiệu bài học Cách 2: Giáo viên sử dụng tranh ảnh: */ Với bài Chiếu dời đô - GV cho học sinh quan sát tranh, nhận biết các sự kiện có liên quan rồi giới thiệu vào bài mới. Hình ảnh về cố đô Hoa Lư – Tràng An Thăng Long xưa Hà Nội ngày nay 10 Từ sự kiện giàn khoan 981, giáo viên gợi mở đến chủ quyền và các bản tuyên ngôn độc lập rồi vào bài mới. 2.2. Hướng dẫn học sinh đọc văn bản và tìm hiểu chú thích. Đọc – tìm hiểu chú thích cũng là cách để học sinh tiếp cận văn bản. Với các văn bản nghị luận trung đại, bước này rất cần thiết vì ngôn ngữ trong văn bản không phải dễ hiểu. Học sinh không chỉ đọc ở nhà mà còn đọc và tìm hiểu theo sự hướng dẫn của giáo viên để hiểu đúng theo đặc trưng thể loại và biết được các kiến thức có liên quan. Hướng dẫn học sinh đọc bài, giáo viên cần chú ý 12 + Vương triều Tiền - Lê vào đầu thế kỉ XI lâm vào khủng hoảng cực điểm. + Cần có người đứng đầu đất nước hội tụ: Nhân, Đức, Giản và Trí. Ở Lý Công Uẩn đã hội tụ những phẩm chất đó. + Sau khi được tôn lên làm vua, ông nhận thấy Hoa Lư chật hẹp, không thể mở mang làm chỗ đô hội được. + Việc dời đô không chỉ có ý nghĩa với triều Lý mà còn mở ra kỉ nguyên quốc gia Đại Việt độc lập và thể hiện niềm tự hào dân tộc về đất nước đang trên đà lớn mạnh. */ Bài Hịch tướng sĩ cần nắm được: + Nhấn mạnh thời điểm xuất hiện của nó ( năm 1284) và lí do vì sao Trần Quốc Tuấn lại viết bài hịch này. Cần chú ý vào thế giặc, sự ngông cuồng của kẻ thù và tư tưởng dao động, cầu hòa của một bộ phận trong hàng ngũ tướng sĩ. + Công lao của Trần Quốc Tuấn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và sự tận trung, tận lực của ông. + Hào khí Đông A. 2.4. Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng thể loại. Trong chương trình văn THPT, học sinh tiếp xúc với nhiều thể loại văn học trung đại khác nhau như: thơ Đường, cáo, phú, văn tế, truyện thơ, ....Mỗi thể loại có một kết cấu riêng mang đặc trưng riêng. Ở chương tình Ngữ văn 8, các văn bản tương ứng với các thể loại như sau: Chiếu dời đô ( thể Chiếu), Hịch tướng sĩ ( thể Hịch), Nước Đại Việt ta ( thể Cáo), Bàn luận về phép học ( thể Tấu). Do đó, trước khi tiếp xúc với các văn bản, giáo viên cần giới thiệu cho học sinh một cách đầy đủ và rõ ràng về đặc trưng thể loại đó để học sinh có thể tự mình tiếp cận tác phẩm. * Về thể loại: - Chiếu: Là thể văn cổ, do vua chúa hay thủ lĩnh dùng để ban bố mệnh lệnh. 14 Quốc Tuấn đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc “ Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đâu như cắt, nước mất đầm đìa, chỉ căm tức sao chưa xả thịt, lột da,nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” Với bài Chiếu dời đô để tạo sự đồng cảm giữa mệnh lệnh của vua với thần dân, Lý Công Uẩn thuyết phục người nghe bằng lí lẽ chặt chẽ và bằng tình cảm chân thành : “ Trẫm rất đau xót về việc đó”, “ Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để dịnh chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?” - Các văn bản thường dùng lối văn biền ngẫu biến hóa linh hoạt, nhịp nhàng, khi thì văn xuôi, khi là văn vần. Ví dụ: “ Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông tựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng” ( Chiếu dời đô) “Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nến độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đé một phương” ( Nước Đại Việt ta) - Các tác phẩm thường in đậm thế giới quan con người trung đại: Tư tưởng mệnh trời, thần, chủ, tâm lí sùng cổ, sùng bái tổ tiên... Ví dụ : Tư tưởng tuân theo mệnh trời của hai nhà Thương, Chu nên có kết quả tốt. Còn hai nhà Đinh – Lê không tuân theo mệnh trời nên triều đình ngắn ngủi, nhân dân chịu cảnh khổ ( Chiếu dời đô) Hay việc lấy các tấm gương trung thần nghĩa sĩ của Trung Hoa xưa và nay để khích lệ ý chí lập công danh của các tướng sĩ. Lấy đạo thần – chủ để khích lệ tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù ( Hịch tướng sĩ) 2.5. Hướng dẫn học sinh nắm được hệ thống từ vựng, điển cố. Trong các tác phẩm trung đại, các tác giả sử dụng một hệ thống từ vựng, điển cố mang đặc trưng của thể văn này. Trước mỗi bài học, nếu chưa hiểu hết 16 mạnh chính nghĩa. Vì vậy, giáo viên phải phân tích sự phản ánh tâm lí trong ngôn ngữ và tác dụng của ngôn ngữ đối với tâm lí trong bài hịch như: - Khi phân tích đoạn nói về tội ác của bọn giặc cần chú ý đến các từ ngữ “ đi lại nghênh ngang”, “ sỉ mắng triều đình”, “ bắt nạt tể phụ”, “ đòi ngọc lụa”, “ vét của kho” nhằm cụ thể hóa những hành vi ngạo mạn vi phạm chủ quyền quốc gia dân tộc Đại Việt của bọn sứ giả phương Bắc. Hay các hình ảnh ẩn dụ “ cú diều”, “dê chó”, “hổ đói” để không chỉ nói lên tính gian manh, ác thú của kẻ thù mà còn thấy được thái độ của người viết. - Khi phân tích đoạn ghi lại thái độ căm thù cao độ và lòng yêu nước sục sôi của Trần Quốc Tuấn “ Ta thường tới bữa quên ăn ... ta cũng vui lòng” thì không thể bỏ qua các động từ “ xả, lột, nuốt, uống” và các điển tích “ trăm thân, nghìn xác” gây xúc động lòng người, tạo sự đồng cảm của các tướng sĩ. + Với bài “ Chiếu dời đô” của Lý công Uẩn, yêu cầu về thể loại là dùng để ban bố mệnh lệnh. “ Chiếu dời đô” gắn với một sự kiện lịch sử - chính trị hết sức quan trọng của năm 1010 đưa đến một bước ngoặt vĩ đại cho sự phát triển của dân tộc Đại Việt. Ngoài việc thể hiện chức năng của thể Chiếu, văn bản này còn có đặc điểm riêng là tính chất tâm tình bên cạnh tính chất mệnh lệnh, bên cạnh ngôn ngữ đơn thoại một chiều của vua còn có ngôn từ mang tính chất đối thoại, trao đổi. Vì vậy, giáo viên cần làm rõ để thấy được tâm tư, tình cảm của người ban Chiếu đã tạo được sự giao cảm, đồng lòng của nhân dân trong nước qua những câu “ Trẫm rất đau xót về việc đó”, “ Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”. Ngôn ngữ có tính chất đối thoại này không chỉ tạo nên sự đồng cảm giữa mệnh lệnh của vua và thần dân mà còn tạo nên sự thuyết phục cho bài Chiếu. + Với bài “ Nước Đại Việt ta” của Nguyễn Trãi, nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: “ Bình Ngô đại cáo hạ một chữ như đổ một trái núi”. Hình như Nguyễn Trãi đã cân nhắc từng chữ, từng lời, từng ý; mỗi chữ dùng đều chọn lọc sao cho có sức biểu cảm âm vang, tất cả đều hợp lí, không một câu lép ý, nhẹ 18 LUẬN ĐIỂM 1 Lý lẽ 1 Lý lẽ 2 Lý lẽ Dẫn Dẫn Dẫn Dẫn Dẫn Dẫn Dẫn Dẫn chứng chứng chứng chứng chứng chứng chứng chứng 1 2 3 1. 2. KẾT KUẬN LẠI VẪN ĐỀ b) Sơ đồ để tổng kết bài học: - Ví dụ: Hệ thống luận điểm trong Chiếu dời đô Ý TƯỞNG DỜI ĐÔ TỪ HOA LƯ VỀ ĐẠI LA LÝ DO DỜI ĐÔ KHỎI HOA LƯ Ý CHÍ ĐỊNH ĐÔ MỚI Ở ĐẠI LA Gương Thực tế hai Những lợi thế của Đại La sáng đời triều Đinh xưa và Lê Về lịch sử Về địa lý Về tiềm năng Lịch sử Trung Đóng đô mãi ở Cao Vương Thuận lợi Kính tế, văn hoa có nhiều lần một nơi nên gặp từng định nhiều mặt hoá phát triển dời đô khó khăn đô (Thương, Chu) - Đất nước phát Đất nước không Ý CHÍ CỦA NHÀ VUA: triển phát triển, tồn tại - Quyết định dời đô. - Các triều đại ngắn ngủi - Hỏi ý kiến bề tôi. tồn tại lâu dài
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_tiep_can_cac_van_ba.doc