Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh Lớp 9 một số kĩ năng viết văn nghị luận đạt kết quả cao trong kì thi vào Lớp 10 THPT
Từ xưa đến nay, môn Ngữ văn là một trong những môn vô cùng quan trọng trong việc hình thành kiến thức và nhân cách cho học sinh. Trong chương trình Ngữ Văn THCS thì Ngữ văn 9 là chương trình khái quát kiến thức THCS và mở ra ngưỡng cửa để học sinh bước sang Trung học phổ thông. Thể loại văn nghị luận trong chương trình Ngữ văn đóng một vai trò quan trọng để các em học sinh rèn luyện năng lực cảm thụ, kỹ năng lập luận giải quyết các vấn đề trong tác phẩm, đồng thời giúp các em có cái nhìn đa chiều đối với xã hội và biết xây dựng các luận điểm, lập luận, biết viết các đoạn văn, bài văn theo quy chuẩn.
Để học sinh viết được văn bản sao cho mạch lạc, đúng chính tả, đúng ngữ pháp đã là khó. Viết văn theo yêu cầu của thể loại và có sức hấp dẫn thì lại càng khó hơn. Đặc biệt, để làm tốt văn nghị luận thì lại càng khó hơn nhiều. Muốn viết một bài văn hay thì học sinh phải có sự ham mê tìm tòi kiến thức trong sách vở và cả trong đời sống xã hội. Hơn nữa, giáo viên với vai trò là người hướng dẫn luôn trăn trở tìm ra được con đường ngắn nhất để học sinh biết tạo lập văn bản có hiệu quả, sáng tạo.
Với học sinh lớp 9 thi vào 10 THPT, để viết một bài văn đạt kết quả cao là cả một quá trình rèn luyện và sáng tạo. Trong chương trình ngữ văn lớp 9 có một phần dành riêng cho văn nghị luận, là phần học tiếp nối kiến thức của lớp 7, lớp 8. Mặc dù ở các lớp dưới các em đã được học về văn nghị luận nhưng đây là một thể loại khó đối với học sinh cấp trung học cơ sở vì thế các em học sinh lớp 9 vẫn luôn ngại học, ngại làm văn nghị luận. Vậy giáo viên phải có phương pháp hay mới có thể dẫn dắt các em làm tốt loại văn này.
Qua quá trình thực tế công tác tại trường THCS Việt Thống tôi thấy quá trình tạo lập văn bản của học sinh trong các năm học 2019-2020, 2020-2021, còn nhiều em lúng túng khi tạo lập một văn bản nghị luận nên việc tạo ra một văn bản hay, hấp dẫn càng khó đối với các em. Thậm chí có em khi cho viết bài văn thì lại viết đoạn văn hoặc viết văn gạch đầu dòng như lập dàn ý, có em viết văn nghị luận nhưng lại viết sang văn biểu cảm, miêu tả hay văn kể chuyện. Sở dĩ có tình trạng trên là do một số nguyên nhân sau: Học sinh không chú tâm vào việc học; Khi học đến phân nghị luận các em lười rèn luyện viết văn; Do học sinh lười suy nghĩ và quen sao chép bài văn mẫu nên không có kỹ năng viết một bài văn nghị luận hoàn chỉnh sáng tạo theo ý chủ quan của bản thân.
Xuất phát từ cơ sở thực tiễn như vậy, nên tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 9 một số kĩ năng viết văn nghị luận đạt kết quả cao trong kì thi vào lớp 10 THPT”. Hy vọng rằng sẽ góp một phần bé nhỏ của mình vào việc giúp học sinh làm được văn nghị luận một cách tốt nhất trong quá trình học môn Ngữ văn, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường hiện nay và những năm tới, giúp các em học sinh có kỹ năng vững chắc về văn Nghị luận để thi vào lớp 10 THPT. Song, do trình độ và năng lực, nhất là trình độ lý luận còn hạn chế, nên trong quá trình nghiên cứu và trình bày chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế mong thầy cô thông cảm.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh Lớp 9 một số kĩ năng viết văn nghị luận đạt kết quả cao trong kì thi vào Lớp 10 THPT

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT STT Quy ước Nội dung 1 NXB Nhà xuất bản 2 THPT Trung học phổ thông 3 THCS Trung học cơ sở 4 SGK Sách giáo khoa 5 NLXH Nghị luận xã hội 2 nhưng lại viết sang văn biểu cảm, miêu tả hay văn kể chuyện. Sở dĩ có tình trạng trên là do một số nguyên nhân sau: Học sinh không chú tâm vào việc học; Khi học đến phân nghị luận các em lười rèn luyện viết văn; Do học sinh lười suy nghĩ và quen sao chép bài văn mẫu nên không có kỹ năng viết một bài văn nghị luận hoàn chỉnh sáng tạo theo ý chủ quan của bản thân. Xuất phát từ cơ sở thực tiễn như vậy, nên tôi chọn đề tài: “Hướng dẫn học sinh lớp 9 một số kĩ năng viết văn nghị luận đạt kết quả cao trong kì thi vào lớp 10 THPT”. Hy vọng rằng sẽ góp một phần bé nhỏ của mình vào việc giúp học sinh làm được văn nghị luận một cách tốt nhất trong quá trình học môn Ngữ văn, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường hiện nay và những năm tới, giúp các em học sinh có kỹ năng vững chắc về văn Nghị luận để thi vào lớp 10 THPT. Song, do trình độ và năng lực, nhất là trình độ lý luận còn hạn chế, nên trong quá trình nghiên cứu và trình bày chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế mong thầy cô thông cảm. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 1. Thực trạng của công tác giảng dạy và tính cấp thiết. Chương trình tập làm văn lớp 9 văn nghị luận là đơn vị kiến thức khá trọng tâm. Có các dạng bài: bài văn nghị luận về vấn đề xã hội hoặc nghị luận tác phẩm văn học. Giáo viên cho học sinh thấy rõ mục đích của văn nghị luận và những yếu tố quan trọng trong văn nghị luận (luận điểm, luận cứ, lập luận). Mục đích của văn nghị luận là: giải quyết một vấn đề được đặt ra trong đời sống bằng những lời nói phù hợp với lẽ phải và sự thật. Những yếu tố quan trọng trong văn nghị luận: Văn nghị luận là dùng lí lẽ, dẫn chứng để bàn bạc, bàn luận một vấn đề thể hiện một nhận thức, một quan điểm, một lập trường của mình trên cơ sở chân lí. Luận điểm: Là điểm quan trọng, là ý chính được đưa ra để bàn luận. Có bài cần nhiều luận điểm mới giải đáp được luận đề. Luận điểm cần phải chính xác, rõ ràng, phù hợp với yêu cầu giỉ quyết vấn đề và đủ làm sáng tỏ toàn bộ vấn đề. Các luận điểm trong một bài văn vừa cần liên kết khăng khít, lại vừa cần có sự phân biệt rành mạch với 4 Đặc biệt, khi viết văn nghị luận cần chú ý bố cục bài văn. Bố cục của bài văn nghị luận cũng như các bài văn khác phải gồm 3 phần; Phần thứ nhất: Mở bài: Nêu vấn đề (Nêu luận điểm tổng quát của bài viết). Phần thứ hai: Thân bài:( Giải quyết vấn đề): - Luận điểm 1: luận cứ 1-> luận cứ 2-> luận cứ (n) - Luận điểm 2: luận cứ 1- luận cứ 2-> luận cứ (n) - Luận điểm 3: luận cứ 1- luận cứ 2-> luận cứ (n) Phần thứ ba: Kết bài: Kết thúc vấn đề (tổng kết và nêu hướng mở rộng luận điểm). Khi giảng dạy, giáo viên đều truyền đạt tốt kiến thức lí thuyết về văn nghị luận. Tuy nhiên, đây là dạng bài tương đối khó cần đến tư duy lập luận thì học sinh mới có thể nhận thức đúng vấn đề và viết bài theo bố cục hợp lý. Vì có những em có khả năng lập luận tốt nhưng vấn đề nhận ra trong xã hội hay trong tác phẩm văn học lại không chính xác nên viết bị lạc đề. Có em nhận ra vấn đề nhưng ngôn ngữ diễn đạt hạn chế nên bài viết không hay. Có em nhận ra vấn đề, có năng lực tốt về văn chương nhưng ngại viết nên bài viết cũng không đạt hiệu quả cao. Đây là bài toán khó cho giáo viên dạy Ngữ Văn khi dạy về phần văn nghị luận. Qua những năm giảng dạy bộ môn Ngữ Văn ở trường THCS Việt Thống, tôi luôn trăn trở để tìm ra biện pháp hay nhất, dễ nhất giúp các em học sinh yêu môn Văn, thích viết văn, viết hay, sáng tạo và đặc biệt giúp các em tìm ra hướng viết bài văn nghị luận đạt hiệu quả cao nhất khi thi vào lớp 10 THPT. 2. Các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục trong công tác giảng dạy. 2.1. Biện pháp 1: Đối với kiểu bài Nghị luận văn học Trong chương tình Ngữ văn lớp 9 và đặc biệt là khi làm bài thi vào 10 THPT, thì phần nghị luận văn học có vai trò rất quan trọng. Để học sinh viết được bài văn đúng kiểu loại văn bản, mạch lạc và hấp dẫn là rất khó khăn. Vì vậy để giúp học sinh viết tốt kiểu bài văn dạng này, tôi mạnh dạn áp dụng phương pháp dạy kiểu bài nghị luận văn học nhằm giúp học sinh hiểu từ đó làm được một bài văn 6 phẩm? Bạn có thể tóm tắt nội dung của tác phẩm đó chưa (đối với tác phẩm văn xuôi)? Đối với tác phẩm thơ thì không chỉ nắm nội dung toàn tác phẩm học sinh còn phải học thuộc lòng những phần nội dung nằm trong chương trình học. Các thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong tác phẩm này là gì? v.v *Thao tác 2: Trước một đề bài cần xem xét các dạng đề đối với tác phẩm đó (dạng đề ở đây được hiểu là về thể loại và nội dung). VD: Với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương chúng ta có thể gắt gặp các dạng đề nghị luận về: các nhân vật trong tác phẩm (Vũ Nương), giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm, nghệ thuật xây dựng tình huống truyện... Ở mỗi dạng đề cần định hướng được những ý chính. *Thao tác 3: Lập dàn bài chi tiết cho từng dạng đề ở mỗi tác phẩm. Đối với mỗi dạng đề giáo viên cần hướng dẫn học sinh lập dàn bài. Tuy mất thời gian nhưng điều này sẽ giúp học sinh lường hết mọi tình huống đề có thể bắt gặp và không phải lúng túng khi làm bài. - Với đề phân tích nhân vật, bao giờ học sinh cũng phải vạch cho mình hai ý chính nhất: ngoại hình và tính cách. Bên cạnh đó một số yếu tố như: ngôn ngữ, hành động, cử chỉ, nội tâm mối quan hệ với xã hội với các nhân vật khác. Tất cả các yếu tố này tựu trung lại cũng bổ trợ và làm bật lên tính cách của nhân vật. Song song với phân tích nội dung, các bạn cần lưu ý và nhấn mạnh đến các thủ pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hầu hết các nhân vật trong tác phẩm văn học thường mang tính hình tượng, đại diện cho một tầng lớp, một thế hệ nên sau quá trình phân tích ngoại hình và tính cách các bạn cần rút ra được thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm qua tác phẩm đó (Khái quát bình diện văn học). Trong mỗi ý lớn như vậy sẽ có thêm nhiều ý nhỏ hơn, học sinh hãy dùng một mũi tên cho một ý để sơ đồ hóa dàn bài của mình. Và ở mỗi ý nhỏ, các học sinh cần tìm ra những dẫn chứng phù hợp minh chứng cho những đặc điểm đó. Dẫn chứng chính là những đoạn trích trong tác phẩm, bạn cần học thuộc một số câu văn tiêu biểu để minh chứng cho 8 * Kết bài: Nêu nhận định đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện ( hoặc đoạn trích). Ví dụ: Cho đề bài sau: Cảm nhận của em về truyện ngắn “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Với đề bài trên, giáo viên hướng dẫn các em lần lượt theo các bước: *) Tìm hiểu đề, tìm ý. - Yêu cầu: Cảm nhận về tình cha con và suy nghĩ về cuộc chiến tranh. - Tìm ý: + Hoàn cảnh lịch sử khiến ông Sáu, bé Thu chịu đựng thiệt thòi. + Tình cha con được biểu hiện rất cảm động.. + Nghệ thuật xây dựng truyện. + Suy nghĩ về cuộc chiến tranh. *) Lập dàn ý. - Mở bài: + Trong cuộc đời ai cũng biết nâng niu quý trọng tình cảm gia đình. + Câu chuyện “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng kể về tình cha con rất cảm động. - Thân bài: + Hoàn cảnh lịch sử miền Nam 1954 + Bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng. + Tình cảm sâu lặng của ông Sáu đối với con. + Nghệ thuật xây dựng truyện. - Kết bài: + Câu chuyện kết thúc bằng cuộc gặp gỡ của bác ba với cô giao liên . người đọc cảm nhận được tình cảm cha con ấm áp. *) Viết bài: (dựa vào dàn ý và kiến thức của bản thân đã tìm hiểu về tác phẩm để viết). - Đoạn mở bài. - Đoạn thân bài.(gồm nhiều đoạn) - Đoạn kết bài. * Đọc lại và sửa chữa: (sửa chũa lỗi câu, lỗi từ, chính tả...) 10 khi sang thu cùng tâm trạng của nhà thơ ngỡ ngàng, ngạc nhiên, đan xen niềm vui sướng. * Đọc lại và sửa chữa: (sửa chũa lỗi câu, lỗi từ, chính tả...) 3.1.2 Biện pháp 2: Đối với kiểu bài văn Nghị luận xã hội Chương trình Ngũ văn lớp 9 kiểu bài văn nghị luận xã hội trọng tâm chia làm hai loại nhỏ: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống. Các dạng bài NLXH đều vận dụng chung các thao tác lập luận là giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận. Ba thao tác cơ bản nhất là giải thích, chứng minh, bình luận. Để làm tốt kiểu nghị luận này, tôi hướng dẫn học sinh thực hiện theo từng bước trên. a. Các thao tác khi làm văn nghị luận xã hội. * Thứ nhất về thao tác giải thích: - Mục đích: Nhằm để người đọc hiểu được vấn đề. - Các bước: + Bước 1: Làm rõ vấn đề được dẫn trên đề. Nếu vấn đề thể hiện dưới dạng là một câu trích dẫn khá nổi tiếng nào đó hoặc một ý tưởng do người ra đề đề xuất, người viết cần lần lượt giải nghĩa, làm rõ nghĩa của vấn đề theo cách đi từ khái niệm đến các vế câu và cuối cùng là toàn bộ ý tưởng được trích dẫn. Khi vấn đề được diễn đạt theo kiểu ẩn dụ bóng bẩy thì phải giải thích cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ ngữ. Nếu vấn đề là một hiện tượng đời sống, người viết cần cho biết đó là hiện tượng gì, hiện tượng đó biểu hiện ra sao, dưới các hình thức nào (miêu tả, nhận diện)...Làm tốt bước giải nghĩa này sẽ hiểu đúng vấn đề, xác định đúng vấn đề (hoặc mức độ) cần giải thích để chọn lí lẽ cần thiết. Trong quan niệm làm văn truyền thống, bước này được xem là bước trả lời câu hỏi: Là gì? + Bước 2: Tìm hiểu cơ sở của vấn đề: Trả lời tại sao có vấn đề đó (xuất phát từ đâu có vấn đề đó). Cùng với phần giải nghĩa, phần này là phần thể hiện rất rõ đặc thù của thao tác giải thích. Người viết cần suy nghĩ kĩ để có cách viết chặt chẽ về mặt 12 - Bàn rộng và nhìn vấn đề (hiện tượng) cần bình luận dưới nhiều góc độ (thậm chí từ góc độ ngược lại) để có cái nhìn đầy đủ hơn. - Khẳng định tác dụng, ý nghĩa của vấn đề trong cuộc sống hiện tại. b. Hướng dẫn học sinh phân biệt số điểm khác nhau cơ bản giữa các kiểu bài: * Dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí - Đề tài: + Về nhận thức: (lí tưởng, mục đích sống, mục đích học tập...). + Về tâm hồn, tính cách: (lòng yêu nước, lòng nhân ái, lòng vị tha, lòng bao dung, lòng độ lượng; tính trung thực, tính cương quyết, tính hoà nhã, tính khiêm tốn, tính ích kỉ...). + Về quan hệ gia đình: (tình mẫu tử, tình anh em...). + Về quan hệ xã hội: (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê hương đất nước...). - Về cấu trúc triển khai tổng quát: + Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận (hiểu vấn đề cần nghị luận là gì). + Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận. + Nêu ý nghĩa của vấn đề (bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lí). * Một số đề tham khảo + Đề 1: Đạo lí “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. + Đề 2: Hãy phát biểu ý kiến của mình về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. + Đề 3: Suy nghĩ của em về triết lí sau: “Đừng xin người khác con cá, mà hãy tìm học cách làm cần câu và cách câu cá”. Bình luận câu nói trên. Em có suy nghĩ gì về con đường học tập sắp tới của mình? + Đề 4: Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng cả nước nhân dịp Tết 1946, Bác Hồ viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Hãy giải thích và nêu suy nghĩ của em về lời dạy của Bác. 14 * Thân bài - Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí này). - Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai lệch (nếu có). - Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động. - Lấy dẫn chứng minh họa (ngắn gọn, tiêu biểu, dễ hiểu). * Kết bài Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận. * Lưu ý: - Muốn làm bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, trước hết hãy tìm hiểu sâu về tư tưởng, đạo lí được đem ra bàn bạc. - Tìm hiểu tư tưởng, đạo lí bằng cách phân tích, giải thích theo từng ý, từng vế của vấn đề được nêu. - Phát biểu nhận định, đánh giá của mình về tư tưởng, đạo lí đó. Nêu các luận cứ và phân tích các luận cứ để khẳng định nhận định, đánh giá của mình. Ví dụ: Cho đề bài sau: Suy nghĩ về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” - Giáo viên cần hướng dẫn các em thực hiện theo các bước sau : a) Tìm hiểu đề. - Kiểu bài ? - Nội dung ? - Tư liệu? b) Lập ý: - Giải thích câu tục ngữ. 16
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_lop_9_mot_so_ki_nan.doc