Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh giỏi tìm hiểu và vận dụng vào bài viết một số tác phẩm truyện đương đại Việt Nam
4. Mô tả các biện pháp cũ thường làm
- Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi năm học của các nhà trường trung học là thi học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa các cấp: thành phố, tỉnh, quốc gia… trong đó có môn Ngữ Văn.
- Để đạt HSG Văn, học sinh (HS) không chỉ thuần tục về phương pháp và kĩ năng mà còn có kiến thức văn học phong phú, sâu rộng. Song mức độ yêu cầu có sự thay đổi ở các thời kì gắn với chương trình SGK cũ (trước 2018) và mới (sau 2018). Trước đây, theo chương trình SGK cũ, bài văn của HSG cần bám sát kiến thức trọng tâm trong các tác phẩm ở chương trình SGK Ngữ Văn và có kiến thức mở rộng (các tác phẩm ngoài chương trình) nhưng không nhiều. Học sinh chủ yếu chỉ cần đào sâu tìm hiểu, phân tích các tác phẩm trong chương trình, dù thích hay không thích. Do đó, HS sẽ ít có cơ hội tiếp cận các tác phẩm mới ngoài chương trình. Năng lực, sở trường cũng khó thể hiện và phát huy.
5. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp:
Năm 2018, Bộ GD-ĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) 2018 với mục tiêu “giúp người học làm chủ kiến thức phổ thông; biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời; có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội; có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú; nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại” (Bộ GD-ĐT, 2018).
“Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung và trong giảng dạy văn nói riêng là rèn luyện phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương pháp vận dụng kiến thức” (Phạm Văn Đồng). Theo đó, dạy cách tìm tòi, vận dụng kiến thức vào bài làm là một yêu cầu then chốt tromg quá trình dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi. Ở góc độ kiến thức, học sinh giỏi Văn luôn luôn đòi hỏi phải được trang bị vốn hiểu biết vừa chắc chắn, chính xác vừa phong phú, đa chiều vừa mới mẻ, độc đáo vừa sâu sắc, rộng lớn, uyên bác. Vốn kiến thức đó sẽ giúp các em luôn chủ động, tự tin, bản lĩnh để xử lý được yêu cầu của đề thi. Có như vậy, bài viết thi học sinh giỏi mới có thể tạo được sự thuyết phục, tạo điểm nhấn nổi bật, ấn tượng, tạo sự hấp dẫn, cuốn hút với người đọc, người chấm.
Để hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi Văn có hiệu quả, chúng tôi nhận thấy rằng: ngoài việc cung cấp những kiến thức lí luận cơ bản, rèn kỹ năng làm bài thì việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu và vận dụng kiến thức tác phẩm văn học vào bài làm cũng là khâu rất quan trọng, góp phần không nhỏ đến kết quả bài làm của học sinh. Vì vậy, việc hướng dẫn tìm hiểu và vận dụng kiến thức tác phẩm văn học vào làm văn cho học sinh chuyên văn nói chung, học sinh đội tuyển dự thi Học sinh giỏi Quốc gia nói riêng là một công việc quan trọng và cần thiết đối với mỗi giáo viên.
Hơn nữa, để viết được một bài văn hay, độc đáo và mới mẻ, ngoài những kiến thức đã học thì học sinh không thể không có hiểu biết về các tác phẩm đương đại, nhất là từ năm 2000 đến nay. Bởi lẽ, văn học luôn gắn bó với đời sống. Văn học cũng là một dòng chảy không ngừng nghỉ. Vì thế, một học sinh giỏi muốn viết được bài văn sâu sắc, thuyết phục thì rất cần có kiến thức về các tác phẩm mới, mang hơi ấm nóng hổi của cuộc sống đương thời. Song, để làm được điều này thì học sinh cần được hướng dẫn tiếp cận, đọc hiểu tác phẩm để tích lũy kiến thức về các tác phẩm mới nằm ngoài chương trình.
Từ thực tế đó, chúng tôi thực hiện một số giải pháp: Hướng dẫn học sinh giỏi tìm hiểu và vận dụng vào bài viết một số tác phẩm truyện đương đại Việt Nam, với muốn mong được chia sẻ vốn kinh nghiệm ít ỏi của mình với các đồng nghiệp và góp phần củng cố và bổ trợ kiến thức, nâng cao chất lượng bài làm của học sinh. Đây là một vấn đề mang ý nghĩa cả về phương diện lí luận và thực tiễn, có tính ứng dụng cao, góp phần không nhỏ vào việc cải thiện chất lượng bồi dưỡng đội tuyển HSG các cấp, đặc biệt là đội tuyển HSGQG.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh giỏi tìm hiểu và vận dụng vào bài viết một số tác phẩm truyện đương đại Việt Nam

THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Tên biện pháp: Hướng dẫn học sinh giỏi tìm hiểu và vận dụng vào bài viết một số tác phẩm truyện đương đại Việt Nam 2. Thời gian biện pháp được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 9/2023 đến tháng 3/2024. 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): không. 4. Mô tả các biện pháp cũ thường làm - Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi năm học của các nhà trường trung học là thi học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa các cấp: thành phố, tỉnh, quốc gia trong đó có môn Ngữ Văn. - Để đạt HSG Văn, học sinh (HS) không chỉ thuần tục về phương pháp và kĩ năng mà còn có kiến thức văn học phong phú, sâu rộng. Song mức độ yêu cầu có sự thay đổi ở các thời kì gắn với chương trình SGK cũ (trước 2018) và mới (sau 2018). Trước đây, theo chương trình SGK cũ, bài văn của HSG cần bám sát kiến thức trọng tâm trong các tác phẩm ở chương trình SGK Ngữ Văn và có kiến thức mở rộng (các tác phẩm ngoài chương trình) nhưng không nhiều. Học sinh chủ yếu chỉ cần đào sâu tìm hiểu, phân tích các tác phẩm trong chương trình, dù thích hay không thích. Do đó, HS sẽ ít có cơ hội tiếp cận các tác phẩm mới ngoài chương trình. Năng lực, sở trường cũng khó thể hiện và phát huy. 5. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp: Năm 2018, Bộ GD-ĐT ban hành Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) 2018 với mục tiêu “giúp người học làm chủ kiến thức phổ thông; biết vận dụng hiệu quả kiến thức vào đời sống và tự học suốt đời; có định hướng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp; biết xây dựng và phát triển hài hòa các mối quan hệ xã hội; có cá tính, nhân cách và đời sống tâm hồn phong phú; nhờ đó có được cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và nhân loại” (Bộ GD-ĐT, 2018). “Cái quan trọng nhất trong giảng dạy nói chung và trong giảng dạy văn nói riêng là rèn luyện phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tòi, phương pháp vận dụng kiến thức” (Phạm Văn Đồng). Theo đó, dạy cách tìm tòi, vận dụng kiến thức vào bài làm là một yêu cầu then chốt tromg quá trình dạy học và bồi dưỡng học sinh giỏi. Ở góc độ kiến thức, học sinh giỏi Văn luôn luôn đòi hỏi phải được trang bị vốn hiểu biết vừa chắc chắn, chính xác vừa phong phú, đa chiều vừa mới mẻ, độc đáo vừa sâu sắc, rộng lớn, uyên bác. Vốn kiến thức đó sẽ giúp các em luôn chủ động, tự tin, bản lĩnh để xử lý được yêu cầu của đề thi. Có như vậy, bài viết thi học sinh giỏi mới có thể tạo được sự thuyết phục, tạo điểm nhấn nổi bật, ấn tượng, tạo sự hấp dẫn, cuốn hút với người đọc, người chấm. 1 - Ngoài ra, chúng tôi còn đề xuất một số biện pháp hướng dẫn học sinh kĩ năng tìm hiểu và vận dụng tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm truyện đương đại Việt Nam nói riêng vào bài viết một cách hiệu quả. 7. Nội dung 7.1. Thuyết minh các giải pháp 7.1.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn HSG nắm vững những vấn đề chung về văn học đương đại Việt Nam a. Tiền đề lịch sử, xã hội và văn hóa Văn học đương đại là một thuật ngữ rộng. Trên thế giới, theo nghĩa chung, văn học đương đại là tác phẩm được xuất bản trong thế giới hiện đại, tính từ Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Ở Việt Nam, các sáng tác văn học nghệ thuật từ sau năm 1975 được định danh là văn học đương đại. Xét về tính chất và trình độ, đương đại là một lát cắt mới nhất của hiện đại. Nhìn văn học Việt Nam đương đại gắn với mốc năm 1986 (với hai lí do cơ bản: thời điểm Việt Nam chính thức chủ trương đổi mới; khởi đầu tiến trình toàn cầu hóa trong tính toàn diện) sẽ thấy sự khác biệt: nếu văn học trước Đổi mới chủ yếu bị chi phối bởi đời sống chiến tranh (lạnh) thì văn học sau năm 1986 nằm trong sự phủ sóng của văn hóa thời bình và hội nhập quốc tế. Khoảng thời gian 1975-1985 là giai đoạn bản lề, tại đó, cái mới đã manh nha nhưng chưa trở thành hiện tượng nổi bật và rộng lớn. Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 về nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lí văn hóa nghệ thuật đã bước đầu cụ thể hóa một số vấn đề trọng yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của văn nghệ từ tầm nhìn đổi mới. Đó là những chỉ dấu cho thấy sự đổi mới về tư duy, về dân chủ xã hội và mở ra một không gian khoáng đạt hơn nhằm kích hoạt đối thoại xã hội và đối thoại nghệ thuật, gỡ bỏ các cấm kị, phá bỏ những nhận thức cũ kĩ, giáo điều. Không khó để nhìn thấy tinh thần phản tư xuất hiện đậm đặc trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo giữa thập niên 80 và sự bứt phá mạnh mẽ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài; kí của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang ở thời điểm bắt đầu và ngay sau Đổi mới. Tinh thần khai phóng tư tưởng và đổi mới xã hội không chỉ tạo hứng khởi cho sáng tác mà còn làm thay đổi tiêu chí đánh giá văn học. Nhiều giá trị văn học quá khứ được soi xét lại, nhiều số phận “oan nghiệt” được “chiêu tuyết”, những đóng góp của Thơ mới và Tự lực văn đoàn được nhìn nhận lại thỏa đáng hơn. Bước sang thế kỉ XXI, đặc biệt sau thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (2007), tiến trình đổi mới tuy không còn sôi nổi như những năm giữa 80-90 nhưng vẫn được tiếp tục cả ở chiều rộng và chiều sâu. Ảnh hưởng của những tư tưởng nghệ thuật hiện đại, hậu 3 không phải là con người được mặc định về giá trị mà là một ẩn số phức tạp, đầy bí mật... Với cái nhìn giải thiêng, hoài nghi, văn học đương đại ít tụng ca mà nghiêng nhiều về việc miêu tả chấn thương tinh thần và nỗi cô đơn của con người. Nó không hẳn là sự thiên lệch tùy hứng mà là chủ âm mang tính cảnh báo. Cũng bởi thế, cảm thức hiện sinh xuất hiện nhiều trong văn học đương đại. Nhà văn không còn nhìn cuộc sống và các giá trị bằng cái nhìn nhị phân mà nhìn nó trong các tương quan đầy biến động. Sự chuyển đổi mối quan tâm của nhà văn và người đọc về các vấn đề xã hội, nhân sinh cùng với sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật đã giúp cho văn học đương đại vượt qua những giới hạn chật hẹp của chủ nghĩa đề tài, mở rộng tối đa biên độ miêu tả cuộc sống trong tính đa chiều. Bên cạnh các đề tài quen thuộc như nông thôn, chiến tranh, lịch sử, là những đề tài mới nảy sinh trong thực tiễn đổi mới như đô thị hóa, sinh thái, đời sống bản năng, phái tính, sự tha hóa của con người Điều đáng nói là dù viết về đề tài nào, các nhà văn đều cố gắng nhìn nhận và cắt nghĩa nó từ tinh thần nhân bản, nhân văn. Bên cạnh việc mở rộng đề tài và gia tăng tính đối thoại, văn học đương đại hết sức đa dạng về bút pháp nghệ thuật. Tuy vẫn còn một số cây bút bị giới hạn bởi bút pháp cổ điển và lối tự sự truyền thống nhưng càng ngày càng có nhiều cây bút sử dụng bút pháp huyền ảo, tượng trưng nhằm lạ hóa cấu trúc nghệ thuật. Có thể nhìn thấy dấu ấn kĩ thuật tự sự hiện đại phương Tây trong sáng tác của những cây bút ưa tìm tòi như Bảo Ninh, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Nguyễn Việt Hà, Đoàn Minh Phượng, Đặng Thân Tồn tại trong một không gian mở và tự thân mang tính mở, văn học đương đại là một thực thể đa dạng về khuynh hướng. Nhìn từ phương diện nội dung và cảm hứng, có thể kể đến khuynh hướng nhận thức lại, khuynh hướng hiện sinh, khuynh hướng lịch sử, khuynh hướng sinh thái, khuynh hướng nữ quyền, Nhìn từ phương thức tư duy và lối viết có thể thấy khuynh hướng đổi mới trên nền truyền thống và khuynh hướng cách tân theo hướng hiện đại phương Tây. Nhìn từ bố cục của nền văn học sẽ thấy hai bộ phận: văn học tinh hoa và văn học đại chúng (thị trường), trung tâm và ngoại vi. Trong mỗi bộ phận ấy sẽ có các khuynh hướng khác nhau. Dù trong thực tế, ranh giới giữa các khuynh hướng không phải lúc nào cũng rạch ròi mà nhiều khi thâm nhập lẫn nhau, nhưng sự đa dạng về khuynh hướng và sự chồng lấn về không gian văn học cho thấy rõ hơn sự phong phú của văn học đương đại. * Đời sống thể loại Quan sát đời sống thể loại văn học đương đại, dễ nhận thấy có ba biến động lớn: sự suy giảm vị thế của thơ, kịch; sự lên ngôi của tiểu thuyết và văn học phi hư cấu; sự xâm nhập và xóa mờ ranh giới thể loại. Từ những năm tiền đổi mới cho đến cuối thập kỉ 90 của thế kỉ XX, thơ có sức tác động lớn nhờ vào sự cộng hưởng giữa sáng tạo và tiếp nhận khi các nhà thơ trực diện nói 5 thể trở thành người đọc. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn tới sự bùng nổ của tự truyện, hồi kí, du kí, bút kí, tùy bút, tản văn trong văn học đương đại. Tựu trung lại, sự phong phú trong đời sống thể loại văn học đương đại cho thấy đến nay giới cầm bút Việt Nam không còn quá xa lạ với những kĩ thuật tân kì, hiện đại của thế giới. Tất nhiên, không phải mọi cách tân đều mang lại thành công mà có cả những thử nghiệm dở dang. Nhưng cũng cần coi sự thành bại trong nghệ thuật là bình thường bởi từ tiếp thu đến tiếp biến là cả một khoảng cách, từ ý thức đổi mới đến kết tinh là cả một quãng đường dài. Không thể có kết tinh nếu không đi qua những thử nghiệm, dò tìm. Đó cũng chính là biện chứng của phát triển. * Ngôn ngữ văn học như là những kí hiệu văn hóa đa tầng Một trong những thay đổi quan trọng của văn học đương đại là đổi mới nhãn quan ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể hình dung ngôn ngữ văn học đương đại như các chiều của một chiếc quạt mở: bên này là ngôn ngữ thông tục, bên kia là ngôn ngữ thuần khiết, bên này là ngôn ngữ tiêu dùng, bên kia là ngôn ngữ tự vị, bên này là ngôn ngữ trong suốt, bên kia là ngôn ngữ đa trị, mờ hóa, bên này là ngôn ngữ suồng sã, bên kia là ngôn ngữ kinh sách Vừa tồn tại như những đối cực, nhưng nhiều khi, các kênh ngôn ngữ này thâm nhập vào nhau trong sự kết hợp có chủ ý. Đặc biệt, trong những sáng tác chịu ảnh hưởng lối viết hiện đại và hậu hiện đại, các nhà văn luôn có ý thức tạo ra sự “hôn phối thể loại” và xóa mờ các phong cách ngôn ngữ. Thơ Trần Dần, Nguyễn Duy, Bùi Chí Vinh, Dương Tường hay văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Thuận, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang Lập, Đặng Thân, rất tiêu biểu cho những kiểu kết hợp ngẫu hứng, bất ngờ. Nhại cũng là biểu hiện rõ nét của tính chất phê phán và tự phê phán của ngôn ngữ văn học đương đại, bởi đó là thứ ngôn ngữ gắn liền với cái nhìn hoài nghi và giải thiêng trong nghệ thuật hậu hiện đại. Nhại được sử dụng trong nhiều cấp độ: nhại thể loại, nhại ngôn ngữ, nhại giọng điệu Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện tượng đa ngữ cũng xuất hiện nhiều trong văn học đương đại. Mặt khác, khi tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì hiện tượng đa ngữ trong văn học càng nổi rõ. Điều đó có thể nhìn thấy trong sáng tác của nhiều nhà văn Việt Nam hải ngoại hoặc các cây bút trong nước có khả năng viết song ngữ. Theo đó, tính đa dạng văn hóa và tính liên văn hóa được thể hiện đậm nét trong ngôn ngữ nghệ thuật của các nhà văn này. Như vậy, tính từ cuối thể kỷ XIX đến nay, tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đã đi qua quãng đường dài hơn một thế kỷ. Đó là cả một quá trình vừa có tiệm tiến và đột biến, vừa có biến mất và sinh thành. Sau những thành tựu nổi bật từ 1986 đến cuối thế kỉ XX, trong vài thập niên gần đây, đời sống văn học vừa có đổi mới và bứt phá, vừa 7 a. Giúp học sinh tích lũy, mở rộng kiến thức văn chương Điều này thật sự cần thiết đối với bài văn nghị luận văn học của học sinh giỏi Văn. Để làm sáng tỏ vấn đề được đặt ra, một học sinh giỏi văn không chỉ biết vận dụng chính xác, hợp lý những kiến thức về văn bản văn học đã học trong chương trình mà còn phải liên hệ, mở rộng tới những văn bản ngoài chương trình tại những vị trí phù hợp. Có như vậy, bài văn mới được mở cả độ rộng lẫn chiều sâu, giúp vấn đề bàn luận được sáng rõ. Đây cũng là một yếu tố quan trọng thể hiện người viết có phông kiến thức rộng, ham đọc, ham tìm tòi, ghi điểm sáng tạo đối với giám khảo. Để làm được điều này thì kĩ năng tìm hiểu văn bản văn học đương đại Việt Nam nói riêng, văn học nói chung ngoài chương trình là vô cùng cần thiết. Các em cần hiểu đúng và nắm chắc nội dung, ý nghĩa của văn bản dự định sẽ đưa vào bài văn thì mới biết nên đặt ở vị trí nào cho phù hợp và thực sự phát huy hiệu quả. Những văn bản văn học đương đại Việt Nam tính từ năm 2000 trở lại đây chưa có trong chương trình sách khoa cũ (chỉ mới xuất hiện trong sách Ngữ Văn lớp 10 theo chương trình GDPT 2018), do đó, hầu như học sinh phải tự tìm tòi, mở rộng. Vì vậy, việc hướng dẫn đọc hiểu các tác phẩm văn học đương đại Việt Nam (tính từ năm 2000 trở lại đây) cho học sinh chuyên Văn là điều cần thiết, quan trọng. Mục đích đầu tiên, cơ bản nhất mà người học văn nói chung, học sinh chuyên văn nói riêng cần xác định cho mình chính là việc đọc để tích lũy kiến thức. Đối với học sinh chuyên văn, việc mở rộng kiến thức môn học là điều vô cùng quan trọng. Một trong những cách thức cần thiết để mở rộng kiến thức chính là tăng cường đọc, tìm hiểu các tác phẩm ở mọi giai đoạn, thời kỳ văn học, cả trong và ngoài chương trình. Việc tìm hiểu tác phẩm đương đại Việt Nam (tính từ năm 2000 trở lại đây) không chỉ cung cấp thêm cho học sinh những hiểu biết về tác giả, tác phẩm mới, chưa có tromg chương trình mà còn giúp các em mở rộng hiểu biết về văn hóa, xã hội đương thời. b. Giúp học sinh rèn luyện tư duy Đọc không chỉ là cách giúp mỗi chúng ta tăng kiến thức mà còn giúp mỗi người rèn luyện tư duy, trước hết, học sinh có thể rèn luyện tư duy trừu tượng. Thông qua hình tượng nghệ thuật được xây dựng trong tác phẩm, học sinh cần huy động trí tưởng tượng, óc liên kết và khả năng tư duy để có thể suy luận ra ý nghĩa mà tác giả gửi gắm. Đọc, hiểu tác phẩm còn giúp học sinh rèn luyện tư duy ngôn ngữ, mài sắc khả năng sử dụng và am hiểu vốn từ vựng. Nhờ vậy, các em có khả năng vận dụng tốt, hay, chính xác vốn từ vựng mà mình tích lũy thông qua việc đọc, hiểu. Điều này góp phần làm tăng tính hấp dẫn và thành công cho bài viết. Đọc, hiểu tác phẩm còn rèn luyện cho học sinh tư duy logic. Các em phải có khả năng phát hiện, liên kết các chi tiết trong tác phẩm để khám phá ra ý nghĩa, thông điệp mà tác giả gửi gắm. 9
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_gioi_tim_hieu_va_va.pdf