Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân (Ngữ văn 6, bộ sách Kết nối tri thức)

I. BỐI CẢNH CỦA SÁNG KIẾN

Năm học 2021-2022 là một dấu mốc quan trọng trong hành trình cải cách chương trình giáo dục phổ thông cấp THCS. Đây là năm đầu tiên cấp THCS thực hiện thay đổi sách giáo khoa lớp 6 theo lộ trình cải cách của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đề ra từ năm 2018. Theo đó, chương trình được xây dựng theo định hướng phát triển năng lực học sinh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại góp phần tạo ra những chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông: kết hợp dạy chữ, dạy người, định hướng nghề nghiệp, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Chương trình mới coi trọng tính thực tiễn, coi trọng những hoạt động trải nghiệm của người học. Như vậy, nền giáo dục nước nhà đang hướng đến mục tiêu góp phần đào tạo ra những con người tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động chiếm lĩnh tri thức, là những con người học để làm, học để sống hòa nhập, học để chung sống theo mục tiêu chung của UNESCO.

Một trong những phẩm chất và năng lực rất cần thiết của con người thời đại mới chính là sự tự tin. Sự tự tin được ví như một chiếc chìa khóa vô cùng quan trọng làm nên thành công cho mỗi người. Do đó, đây là điều quan trọng cần hình thành và phát triển ngay từ khi còn nhỏ. Với học sinh lớp 6, đây cũng là thời điểm thích hợp để rèn luyện đức tính tự tin để các em có đủ khả năng tiếp nhận nội dung chương trình mới theo phương pháp dạy học mới hiện nay.

II. LÝ DO CHỌN VÀ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN:

Đối với môn Ngữ văn lớp 6 mới, mỗi bài học trong chương trình được thiết kế đủ 4 kĩ năng: Đọc, viết, nói và nghe. Mục đích của chương trình là không chỉ phát triển năng lực văn học cho học sinh mà còn phát triển năng lực ngôn ngữ và nhiều phẩm chất khác nữa, trong đó có sự tự tin. Đây là điểm khác biệt căn bản trong cách xây dựng chương trình Ngữ văn hiện hành so với chương trình trước đây. Vì các tiết học hiện nay được tổ chức dưới sự dẫn dắt của giáo viên, còn học sinh đóng vai trò là chủ động tiếp nhận bài học thông qua các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. Trong các phương pháp đó, không thể không kể đến các hoạt động nhóm, trạm học tập, thảo luận nhóm lớn, nhóm nhỏ...yêu cầu học sinh phải tự bộc lộ ý kiến, quan điểm hay tự báo cáo các nội dung của bài học. Do đó các em cần có phong cách thuyết trình tự tin, thoải mái trước lớp. Nói đến 4 kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, sự tự tin thể hiện qua hoạt động nói và nghe rõ rệt nhất. Chương trình Ngữ văn 6 có 10 bài học trong 1 năm. Tương ứng với số bài đó là có ít nhất 10 tiết nói và nghe. Trong tiết học này, học sinh nói là chủ yếu. Vậy, nếu các em không đủ tự tin để trình bày trước lớp thì coi như giờ học chưa thành công. Qua các tiết nói và nghe thực hiện từ đầu Học kì I ở lớp 6 trường THCS, tôi nhận thấy các em còn rụt rè, e ngại khi nói trước lớp vì vậy mà giờ học trở nên tẻ nhạt, học sinh chưa hào hứng học bài. Như vậy, giờ học chưa thể đảm bảo mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu một số giải pháp để giúp học sinh tự tin trình bày bài nói trước lớp qua các tiết luyện nói. Và trong sáng kiến kinh nghiệm này, xin trình bày các giải pháp cụ thể qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân”

doc 25 trang Thanh Ngân 13/07/2025 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân (Ngữ văn 6, bộ sách Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân (Ngữ văn 6, bộ sách Kết nối tri thức)

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân (Ngữ văn 6, bộ sách Kết nối tri thức)
 2/25
này, học sinh nói là chủ yếu. Vậy, nếu các em không đủ tự tin để trình bày trước 
lớp thì coi như giờ học chưa thành công. Qua các tiết nói và nghe thực hiện từ 
đầu Học kì I ở lớp 6 trường THCS, tôi nhận thấy các em còn rụt rè, e ngại khi 
nói trước lớp vì vậy mà giờ học trở nên tẻ nhạt, học sinh chưa hào hứng học bài. 
Như vậy, giờ học chưa thể đảm bảo mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển 
năng lực học sinh. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu một số giải pháp để giúp học sinh 
tự tin trình bày bài nói trước lớp qua các tiết luyện nói. Và trong sáng kiến kinh 
nghiệm này, xin trình bày các giải pháp cụ thể qua đề tài sáng kiến kinh nghiệm: 
“Giúp học sinh tự tin trình bày trước lớp kể về một trải nghiệm của bản thân” 
 III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA SÁNG KIẾN
 3.1. Phạm vi nghiên cứu
 Các giải pháp để giúp học sinh lớp 6 trường THCS tự tin trình bày trước 
lớp trong tiết nói và nghe về một trải nghiệm của bản thân (Bài 1, Bài 3 môn 
Ngữ văn 6, bộ sách “ Kết nối tri thức với cuộc sống” Học kì I)
 3.2. Đối tượng nghiên cứu 
 - Học sinh lớp 6 trường THCS: Nghiên cứu năng lực nói của học sinh nói 
chung và sự tự tin khi nói.
 - Các giải pháp giúp học sinh tự tin khi nói theo chủ đề kể lại một trải 
nghiệm đáng nhớ của bản thân.
 - Các cách tổ chức hoạt động cho tiết “ Nói và nghe kể về một trải nghiệm 
của em”.
 IV. MỤC ĐÍCH CỦA SÁNG KIẾN
 Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm tổng hợp những giải pháp giúp học sinh 
lớp 6 trường THCS với mục đích sau:
 - Đảm bảo giờ dạy theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho 
học sinh.
 - Giúp học sinh có kĩ năng nói một cách tự tin trước tập thể chủ động trình 
bày được trải nghiệm đáng nhớ của mình cho cả lớp cùng nghe.
 - Tạo hứng thú và không khí học tập sôi nổi trong giờ nói và nghe theo 
chủ đề trên.
 - Rèn luyện sự tự tin cho học sinh không chỉ cho riêng giờ Ngữ văn mà 
cho cả các môn học khác, góp phần hình thành và phát triển kĩ năng mềm trong 
tương lai.
 B. PHẦN NỘI DUNG
 I. THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU 4/25
 mong muốn cả giáo viên và học sinh cùng đánh giá được thực trạng để việc trình 
 bày bài nói được thực hiện tốt hơn khi học các bài học tiếp theo.
 Không chủ Phát âm 
 Lớp/ Nội dung nói sơ 
 Nội dung nói tốt động xin trình Nói nhỏ sai/nói lắp
 Sĩ số sài
 bày (L - N)
 Lớp Số Số Số Số Tỉ lệ Số 
 Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ % Tỉ lệ %
 6C lượng lượng lượng lượng % lượng
 36HS 4 11,2 10 27,8 10 27,8 6 16,6 6 16,6
 Lớp 
 6F 5 11,4 15 34,1 13 29,5 6 13,6 5 11,4
 44HS
 Phiếu khảo sát về mức độ tự tin khi trình bày các vấn đề trong tiết 
 nói và nghe
 Câu hỏi khảo sát: Em hãy tự chấm điểm về mức độ tự tin của em khi trình 
 bày trước lớp các vấn đề của bài học trong tiết nói và nghe vào phiếu khảo sát. 
 Kết quả tổng hợp thu được như sau:
 Lớp Rất tự tin Khá tự tin Chưa tự tin lắm Thiếu tự tin Không tự tin 
 (9-10 điểm) (7- 8 điểm) (5-6 điểm) (1- 4 điểm) (0 điểm)
 Số Số Số Số Số 
 Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ%
Sĩ số lượng lượng lượng lượng lượng
 4 11,1 6 16,6 12 33,4 8 22,3 6 16,6
 6F/
 7 15,9 10 22,7 13 29,6 10 22,7 4 9,1
 44
 Tìm hiểu nguyên nhân các hạn chế trên tôi nhận thấy như sau:
 Về nội dung bài nói sơ sài có hai nguyên nhân chủ yếu: Một là do học 
 sinh chuẩn bị nội dung bài nói không kĩ, hoặc có những học sinh băn khoăn 
 không biết bài làm của mình đã đúng yêu cầu chưa; hai là do tâm lí học sinh 
 không tốt nên khi trình bày bai nói học sinh không nhớ được hết các nội dung để 
 trình bày.
 Đối với vấn đề học sinh không chủ động xung phong nguyên nhân chủ 
 yếu là tâm lí rụt rè, e ngại việc đứng trước tập thể.
 Còn những em học sinh nói lắp bắp, nói nhỏ một phần là do bản tính, một 
 phần là do tâm lí. 6/25
rộng phạm vi kiến thức bài học. Sau khi cho các em xem, giáo viên có thể cho 
học sinh nhận xét về kĩ năng nói, về sự tự tin khi nói, và cách thức để có trình 
bày cuốn hút như vậy. Từ đó các em sẽ tìm cách học hỏi, thể hiện phong thái 
chuyên nghiệp của họ.
 1.2. Giúp học sinh biết được thế mạnh của mình và động viên học 
sinh phát huy thế mạnh.
 Để giúp học sinh tự tin, việc giúp học sinh nhận ra thế mạnh của bản thân 
vô cùng có ý nghĩa. Bởi vì đó sẽ là cơ sở để học sinh có niềm tin vào khả năng 
của mình và giảm bớt cảm giác tự ti, rụt rè. Giáo viên có thể gợi ý để học sinh 
nhận ra các em giỏi điều gì, hài lòng về điều gì ở bản thân, em có thể làm tốt 
điều gì. Bên cạnh đó, khi nhận xét, đánh giá phần trình bày của học sinh giáo 
viên nên tế nhị đưa vào lời khen lời động viên để học sinh không cảm thấy thất 
vọng về mình. Nguyên tắc vận dụng kiểu “ hai lời khen, một góp ý” là mô hình 
vừa góp ý vừa động viên học sinh rất tốt. Ví dụ: Giọng kể của em rất hay (khen), 
lời kể rõ ràng, mạch lạc, (khen), nếu em thêm những câu văn miêu tả sự việc đó 
nữa thì bài kể của em sẽ rất tốt (góp ý). Bên cạnh đó, có một số học sinh phải 
dùng “ chiêu” “ khích tướng” học sinh, tức là chạm vào tự ái, sĩ diện của học 
sinh để lấy đó làm đòn bẩy kích thích học sinh. Ví dụ: Bạn A mọi khi phát biểu 
rất sôi sổi, rất tốt tại sao hôm nay con lại trầm thế (Cũng là vận dụng nguyên tắc 
khen vừa góp ý) v.v...
 1.3. Giúp học sinh hiểu rõ kiểu bài 
 Tiêu đề của bài học là: Kể lại một kỉ niệm đáng nhớ đối với bản thân
 Trước bài học này, học sinh đã có tiết viết bài. Ngay từ tiết viết bài, giáo 
viên cần củng cố cho học sinh về khái niệm: “Kể về một trải nghiệm”. 
 Kể là dùng phương thức tự sự là chủ yếu. Trong đó có việc sử dụng ngôi kể, 
thứ tự kể, nội dung kể phải hàm chứa các sự việc xảy ra theo một diễn biến nhất 
định. Nói như vậy để học sinh không nhầm lẫn với phương thức miêu tả mà học 
sinh đã học từ cấp tiểu học. “Kể về một trải nghiệm” là khái niệm về kiểu bài đã 
được sách giáo khoa cung cấp như sau: Kể về một trải nghiệm là kiểu bài trong đó 
người viết kể về diễn biến của sự việc mà mình đã trải qua và để lại nhiều ấn tượng, 
cảm xúc. Nếu chỉ nêu định nghĩa như vậy, rất nhiều học sinh vẫn còn mơ hồ về hai 
chữ “ trải nghiệm”. Qua tực tế điều tra trước khi thực hiện đề tài, tôi có khảo sát 
học sinh bằng câu hỏi “ Con hiểu như thế nào là một trải nghiệm?”, hai phần ba 
trong số học sinh được hỏi trả lời với ý: Trải nghiệm là đi đâu đó...và trải nghiệm là 
hoạt động gì đó có ý nghĩa lớn lao lắm. Như vậy, trong suy nghĩ của học sinh các 
em hiểu chưa đúng nghĩa khái niệm sách giáo khoa đưa ra. Điều đó dẫn đến việc 8/25
 Bằng cách đưa ra những gợi ý cụ thể như vậy, học sinh sẽ có thêm ý 
tưởng cho bài nói, tránh được nội dung sơ sài hoặc sai yêu cầu bài nói. Và khi 
học sinh hiểu yêu cầu của bài kể lại có sự chuẩn bị kĩ các nội dung cũng sẽ là cơ 
sở cho sự tự tin khi học sinh trình bày. 
 Bên cạnh đó, học sinh cũng cần hiểu rõ các nhiệm vụ cần thực hiện trong 
bài nói “ Kể về một trải nghiệm của bản thân”:
 Bảng 1: Những yêu cầu khi trình bày nói
 Yêu cầu Cách thức/ nội dung thể hiện
 Mở đầu bài nói
 Thái độ
 Nội dung trình bày
 Giọng nói và tốc độ
 Cử chỉ và điệu bộ
 Kết thúc bài nói
 Bảng này sẽ được in ra và phát cho học sinh trong phần hướng dẫn học 
bài ở tiết trước đó. Học sinh có thể xem và đặt câu hỏi cho giáo viên nếu thấy 
chưa hiểu. Sau đó học sinh tự trả lời các nội dung theo gợi ý vào phiếu trước khi 
lập dàn ý cho bài kể. Bảng có tác dụng định hướng nội dung và hình thức trình 
bày trước khi nói để người nói chủ động hơn, phát huy tính tích cực, chủ động 
và cũng là năng lực lập kế hoạch của học sinh trước khi tiến hành công việc. 
Việc định hướng tốt sẽ giúp học sinh tự tin hơn khi nói.
 Bảng 2: Những yêu cầu sau khi nói
 Đối tượng Tiêu chí Yêu cầu cụ thể
Người nói Thái độ
 Hành động
Người nghe Thái độ
 Hành động
 Bảng này tích hợp cả hai nội dung vì mỗi học sinh đều cần trả lời vào bảng 
để hiểu kĩ càng các tiêu chí đánh giá bài kể. Khi nắm được các tiêu chí này, học 
sinh có thể tự điều chỉnh nội dung và hình thức bài kể, tránh được tâm lí lo lắng 
bài kể không đạt yêu cầu. Đặc biệt, phần nghe cũng có vai trò quan trọng để học 
sinh có thể tự rút kinh nghiệm và tự tin hơn với phần trình bày của mình. Đó 
cũng là cách nhằm phát huy năng lực phản biện của học sinh vì người có tư duy 
phản biện tốt là người sẽ tự tin trong giao tiếp. 10/25
 1.6. Thay đổi hình thức tổ chức giờ học và các hoạt động học tập 
 Trong thực tế, tiết nói và nghe không dễ để tổ chức sinh động, hấp dẫn 
như các tiết đọc hiểu văn bản hay thực hành Tiếng Việt. Đặc biệt, nếu học sinh 
không hợp tác tốt giáo viên khó có thể thực hiện dạy học theo định hướng phát 
triển năng lực với các mục tiêu và nội dung như đã đề cập ở trên. Và đa phần 
các giờ học đều được tổ chức bằng cách truyền thống: Giáo viên là người tổ 
chức và hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động. Do đó nếu chúng ta có 
cách thay đổi thì sẽ giúp học sinh chuyển trạng thái học tập và có tâm thế học 
tập tốt hơn, hào hứng tương tác, sôi nổi tranh luận và phản biện. Chẳng hạn:
 Thay đổi không gian học tập: Với những trường có cơ sở vật chất đầy 
đủ và nhiều phòng học, có phòng học bộ môn, giáo viên có thể mượn không 
gian học tập ở phòng học khác để tổ chức tiết học trên. Với không gian phòng 
học mới, học sinh sẽ có tâm lí hào hứng hơn. Đặc biệt nếu lớp học trang trí theo 
chủ đề của bài học, có thêm các thiết bị khác hỗ trợ như loa, micro, máy chiếu, 
bảng thông minh...để học sinh có thể trình chiếu hình ảnh, âm thanh...kết hợp 
với bài kể thì cũng tạo ra hiệu ứng tốt. Khi đó, người nghe không chỉ nhìn chăm 
chăm vào người nói mà sẽ huy động cả nghe, nhìn kênh hình... khiến học sinh 
trình bày vấn đề cũng không bị mất bình tĩnh.
 Giáo viên hướng dẫn một học sinh trong lớp điều khiển tiết học: Việc 
này giống như thay đổi khẩu vị trong những bữa ăn hàng ngày. Thường ngày, học 
sinh quen nghe và làm theo sự tổ chức và hướng dẫn của giáo viên nên khi thay 
việc đó bằng cách cho học sinh khác thực hiện thay giáo viên, học sinh vừa có sự 
tò mò muốn xem hôm nay bạn đó làm như thế nào, vừa đón nhận giờ học với tâm 
lí thoải mái hơn. Khi các em tương tác với nhau các em sẽ cảm thấy cởi mở, tự tin 
hơn. Qua các tiết luyện nói khác nhau, giáo viên có thể mời những học sinh khác 
nhau thực hiện nhiệm vụ trên. Đây cũng là việc để rèn luyện sự tự tin, khả năng 
nói trước đám đông của chính học sinh được gọi lên điều khiển tiết học. 
 Tập trung vào nhiều đối tượng học sinh, nhất là học sinh còn nhút 
nhát, rụt rè: Tâm lí của nhiều giáo viên khi dạy tiết thực hành nói và nghe là 
muốn giờ học đảm bảo về thời gian và nội dung cần đạt được thực hiện đầy đủ 
trong một tiết học nên thường dành phần nói cho những học sinh ưu tú trong 
hoạt động này. Như thế chúng ta vô tình coi nhẹ vai trò của các học sinh khác, 
không cho các em có cơ hội được thể hiện năng lực của bản thân thì từ đó các 
em không thể xác định được năng của các em đang ở mức độ nà. Vậy, để giờ 
“Nói và nghe” có tác dụng phát triển năng lực cho nhiều học sinh, giáo viên cần 
lưu ý: Học sinh được chọn để trình bày vấn đề không nhất thiết phải là những 12/25
 Đọc phương châm luyện nói: Nói lẫn lần này nên nói lại. Nói lẫn lần nữa 
 lại nói lại, nói lúc nào lưu loát hết lầm lẫn là lên lớp nói luôn. 
 (sưu tầm: nguồn Internet )
 Dạng bài tập luyện phát âm đúng hai phụ âm “ L - N” trên Internet có rất 
 nhiều bài tập khác nhau, giáo viên có thể giới thiệu để học sinh tự tìm và tự tập 
 luyện. Bài tập trên cũng có thể tổ chức thành trò chơi khởi động trong giờ “ Nói 
 và nghe” hoặc lúc kết thúc giờ học hoặc yêu cầu luyện tập ở nhà đối với những 
 học sinh mắc lỗi (Có thể phân cặp đôi cùng luyện sẽ có hiệu quả hơn). Giáo viên 
 có thể ra quy định chấm điểm như sau: 
 - Đọc đúng và nhanh: 3 điểm
 - Đọc đúng và chậm: 2 điểm
 - Đọc sai 1 lỗi: 1 điểm
 - Đọc sai nhiều hơn 1 lỗi: 0 điểm
 Để thực hiện nghiêm túc việc luyện tập, có thể tiến hành cả trong các giờ 
 truy bài, hoặc tổ chức thành một trò chơi trong giờ sinh hoạt lớp. Giáo viên gợi 
 ý cho học sinh lập nhật kí tập luyện và tự theo dõi sự tiến bộ thông qua bảng 
 chấm điểm như trên. 
 Bên canh đó, giáo viên cũng khuyên các em khi nói nên nói chậm rãi, giữ 
 tâm lí thoải mái, đừng nghĩ đó là một sự tồi tệ, làm mình phiền muộn. Và cũng 
 đừng nghĩ người khác đang soi mói hay để ý đến hạn chế của mình. Những suy 
 nghĩ tích cực sẽ giúp học sinh thêm quyết tâm và nhanh tiến bộ. Đối với các học 
 sinh khác không mắc lỗi, giáo viên nhắc nhở học sinh không nên có thái độ nhạo 
 báng, nói lời khiếm nhã mà cần lắng nghe và giúp bạn sửa lỗi. 
 2. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến vào thực tiễn 
 Bảng so sánh trước và sau khi thực hiện đề tài.
 - Trước khi thực hiện
 Lớp Rất tự tin Khá tự tin Chưa tự tin lắm Thiếu tự tin Không tự tin 
 (9-10 điểm) (7- 8 điểm) (5-6 điểm) (1- 4 điểm) (0 điểm)
 Số Số Số Số Số 
 Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ% Tỉ lệ%
Sĩ số lượng lượng lượng lượng lượng
 4 11,1 6 16,6 12 33,4 8 22,3 6 16,6
 6F/
 7 15,9 10 22,7 13 29,6 10 22,7 4 9,1
 44

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_tu_tin_trinh_bay_truoc_l.doc