Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh Lớp 8 nâng cao hứng thú học tập môn Khoa học tự nhiên, bộ sách Kết nối tri thức
Một trong những mục tiêu quan trọng trong nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường chính là công tác đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện ở việc tích cực hoá các hoạt đông tiếp thu kiến thức của học sinh. Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, trong những năm gần đây nhà trường đã tổ chức nhiều hoạt động mới. Trọng tâm đổi mới về dạy học và hoạt động giáo dục.
Tuy nhiên, việc đổi mới còn mang tính bộc phát, chưa cao. Nguyên nhân giáo viên đã quá quen với phương pháp dạy học cũ, nội dung chương trình còn nặng, cơ sở vật chất chưa đồng bộ, tâm lý giáo viên ngại đổi mới phương pháp. Nhiều tiết học còn nặng nề làm giờ lên lớp của giáo viên và học sinh mang một tâm lý nặng trịch, không được vui vẻ và không hứng thú đối với học sinh.
Các hoạt động mà giáo viên tổ chức có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết học. Nếu tổ chức các hoạt động tốt sẽ tạo ra tâm lý hưng phấn, thích thú, lôi kéo học sinh một cách tự nhiên vào giờ học, người học sẽ không còn cảm giác nặng nề, lo lắng khi vào tiết học. Các em sẽ thật sự thoải mái tham gia vào các hoạt động mà không hề hay biết, nó chính là phần dạo nhạc của một ca khúc góp phần xoa dịu những căng thẳng trong cả tiết học.
Tôi nghĩ một tiết học môn Khoa học tự nhiên sẽ được học sinh yêu thích nếu ngay từ giây phút đầu tiên giáo viên biết khơi gợi ở các em hứng thú đối với bài học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình yêu lâu bền đối với môn học. Chính vì vậy mà các hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học.
Xuất phát từ những cơ sở trên tôi đã xây dựng cho mình một số giải pháp: “Giúp học sinh lớp 8 nâng cao hứng thú học tập môn Khoa học tự nhiên” và bước đầu có những kết quả hết sức thành công.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh Lớp 8 nâng cao hứng thú học tập môn Khoa học tự nhiên, bộ sách Kết nối tri thức
nặng, cơ sở vật chất chưa đồng bộ, tâm lý giáo viên ngại đổi mới phương pháp. Nhiều tiết học còn nặng nề làm giờ lên lớp của giáo viên và học sinh mang một tâm lý nặng trịch, không được vui vẻ và không hứng thú đối với học sinh. Các hoạt động mà giáo viên tổ chức có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết học. Nếu tổ chức các hoạt động tốt sẽ tạo ra tâm lý hưng phấn, thích thú, lôi kéo học sinh một cách tự nhiên vào giờ học, người học sẽ không còn cảm giác nặng nề, lo lắng khi vào tiết học. Các em sẽ thật sự thoải mái tham gia vào các hoạt động mà không hề hay biết, nó chính là phần dạo nhạc của một ca khúc góp phần xoa dịu những căng thẳng trong cả tiết học. Tôi nghĩ một tiết học môn Khoa học tự nhiên sẽ được học sinh yêu thích nếu ngay từ giây phút đầu tiên giáo viên biết khơi gợi ở các em hứng thú đối với bài học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình yêu lâu bền đối với môn học. Chính vì vậy mà các hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kích hoạt sự tích cực của người học. Xuất phát từ những cơ sở trên tôi đã xây dựng cho mình một số giải pháp: “Giúp học sinh lớp 8 nâng cao hứng thú học tập môn Khoa học tự nhiên” và bước đầu có những kết quả hết sức thành công. 2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến 2.1. Mục đích của giải pháp Giúp học sinh yêu thích, hứng thú đối với bài học và hơn thế nữa còn khơi dậy niềm đam mê, gây dựng, bồi đắp tình yêu lâu bền đối với môn học. Nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. 2.2. Nội dung giải pháp 2.2.1. Giải pháp 1: Giúp học sinh hứng thú học tập tốt môn KHTN 8 thông qua hoạt động khởi động Trước khi đi vào bài mới, giáo viên sẽ tạo không khí thân thiện, cởi mở, đơn giản là việc hỏi thăm sức khỏe một cách dí dỏm, kể một câu chuyện hài hước ngắn gọn hay sử dụng trò chơi trong phần khởi động bài học nhằm kích thích sự vòng tròn. Chỉ cần nhấp vào bánh xe vòng tròn, nó sẽ bắt đầu quay trong vài giây. Kết quả chọn ngẫu nhiên một tên trong danh sách. Người được chọn sẽ ưu tiên trả lời các câu hỏi của giáo viên đặt ra. Trò chơi này rất đơn giản và vui vẻ (có hình ảnh minh họa đính kèm trong phụ lục). Trò chơi 4: Trò chơi “Tinh mắt, nhanh tay” Ví dụ: Bài 16: ÁP SUẤT TRÊN BỀ MẶT Mục đích: Rèn kĩ năng tìm tòi, quan sát, kĩ năng làm việc cá nhân và nhóm. Cách chơi: Giáo viên cho học sinh quan sát và xem video về độ lún của chiếc nệm trong 2 trường hợp: khi một người đứng trên chiếc nệm và khi cũng là người đó nhưng lại nằm trên chiếc nệm. Học sinh tinh mắt sẽ nhanh chóng phát hiện độ lún của chiếc nệm trong hai trường hợp là khác nhau. Sau đó nhanh tay xung phong phát biểu để mô tả lại hiện tượng quan sát được và có thể đưa ra một số nguyên nhân để giải thích cho hiện tượng. Dựa vào câu trả lời của học sinh giáo viên dẫn dắt vào bài mới. Trò chơi 5: Trò chơi “ Tìm các hệ cơ quan trong cơ thể người” Mục đích: Giáo viên tạo cho học sinh tâm thế vừa học vừa chơi hết sức nhẹ nhàng, vui vẻ. Ví dụ: Bài 30 “KHÁI QUÁT VỀ CƠ THỂ NGƯỜI” Cách chơi: Giáo viên chia lớp thành 9 nhóm nhỏ và phát phiếu có ghi tên các hệ cơ quan cho các nhóm (mỗi nhóm 1 tên hệ cơ quan khác nhau). Sau đó, giáo viên chiếu hình ảnh từng hệ cơ quan trong cơ thể, yêu cầu các nhóm xác định tên của hệ cơ quan trong hình ảnh. Khi bắt đầu chơi giáo viên sẽ hô to để gọi và hỏi, học sinh sẽ xác định tên của hệ cơ quan đó, nếu đúng tên hệ cơ quan ghi trên phiếu của nhóm thì nhóm đó sẽ đáp, còn không phải tên nhóm ghi trên phiếu thì sẽ giữ im lặng, nếu không phải tên nhóm mình mà đáp là sẽ thua. Giáo viên hô: Các hệ cơ quan ơi, các hệ cơ quan ơi! Học sinh đáp: Chúng em đây, chúng em đây Gíao viên hỏi: Hệ cơ quan này tên là gì? (Ví dụ: Giáo viên chiếu hình ảnh hệ vận động) chứng cụ thể bằng các hình ảnh phản ánh đúng thực tế, các em sẽ thấy tính thật của vấn đề giáo viên đang mở rộng, liên hệ. Để khai thác triệt để “công lực” của kênh hình, giáo viên phải nắm được một số nguyên tắc có tính bắt buộc sau: Nguyên tắc sử dụng đúng lúc: Sự xuất hiện đúng lúc làm tăng thêm thế mạnh của kênh hình, nhất là trong sự háo hức chờ đợi của học sinh. Yếu tố bất ngờ khi kênh hình xuất hiện càng kích thích tính hấp dẫn và hứng thú từ người xem. Nếu cho các em xem trước thì dễ nhàm chán và phân tán sự chú ý của cả lớp. Nguyên tắc sử dụng đúng chỗ: Tìm vị trí để giới thiệu phương tiện trực quan một cách hợp lý nhất. Có như vậy học sinh mới huy động được nhiều giác quan nhất, dù ngồi ở mọi vị trí trong lớp ai cũng có thể tiếp xúc phương tiện một cách rõ ràng và đồng đều. Nguyên tắc sử dụng đủ cường độ: Hiệu quả của kênh hình sẽ giảm sút nếu kéo dài việc sử dụng một loại phương tiện hoặc hình ảnh cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu. Để khai thác các kênh hình có hiệu quả thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh trình tự các bước khai thác kênh hình một cách rõ ràng, cụ thể giúp học sinh nhận biết được các nhiệm vụ của mình cần thực hiện. Bước 1. Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: Cho học sinh quan sát tranh vẽ, hình ảnh để có tư duy về nội dung thu thập các thông tin. Giáo viên nêu câu hỏi và nêu vấn đề tổ chức hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi hoặc hoàn thành các nội dung trong phiếu học tập. Bước 2. Học sinh quan sát tranh ảnh, trình bày câu trả lời để hiểu nội dung hình vẽ mô tả. Học sinh khác nhận xét phần trình bày của bạn (có thể đặt thêm câu hỏi) Bước 3. Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh và hoàn thiện câu trả lời. Ví dụ: Bài 33 “ MÁU VÀ HỆ TUẦN HOÀN CỦA CƠ THỂ NGƯỜI” trong phiếu học tập. Sau đó báo cáo kết quả và các nhóm nhận xét lẫn nhau. Bước 4. Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh, hoàn thiện câu trả lời và kết luận kiến thức. Ví dụ: Bài 34 “ HỆ HÔ HẤP Ở NGƯỜI” Bước 1. Giáo viên phát phiếu học tập cho các nhóm, hướng dẫn học sinh xem video, nắm thông tin để nêu được tên và đặc điểm cấu tạo của các cơ quan của hệ hô hấp và chức năng của từng cơ quan đó. PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1 Các cơ quan Đặc điểm cấu tạo Chức năng Đường dẫn khí Mũi Họng Thanh quản Khí quản Phế quản Hai lá phổi Bước 2. Cho học sinh xem video giới thiệu về hệ hô hấp, thông qua hình ảnh và thông tin được giới thiệu trong video học sinh có thể ghi nhanh những kiến thức liên quan đến nội dung cần hoàn thành. Bước 3. Cho học sinh thời gian thảo luận nhóm hoàn thiện phiếu học tập và báo báo kết quả thảo luận. Sau đó cho các nhóm nhận xét, bổ sung lẫn nhau. Bước 4. Giáo viên nhận xét câu trả lời của học sinh, hoàn thiện câu trả lời và kết luận kiến thức. 2.2.4. Giải pháp 4: Nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học trong tiết dạy Thiết bị, đồ dùng dạy học là một bộ phận của nội dung và phương pháp dạy học, trong môn khoa học tự nhiên là phương tiện duy nhất giúp hình thành ở học sinh kĩ năng, kỹ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật. Môn khoa học tự nhiên là môn học thực nghiệm, nên các kĩ năng thực hành, làm thí nghiệm sẽ giúp các em Kỹ năng giao tiếp và ứng xử có văn hóa: Là tập hợp những quy tắc, cách ứng xử, tương tác được đúc kết bằng những kinh nghiệm trong quá trình giao tiếp hằng ngày, bao gồm các kỹ năng như: kỹ năng lắng nghe, thấu hiểu; kỹ năng quan sát; kỹ năng sử dụng ngôn từ, hình thể; kỹ năng thuyết phục, đồng cảm... Khi học sinh trả lời câu hỏi có một số học sinh khác vẫn giơ tay, giáo viên nên để cho học sinh trả lời xong, yêu cầu học sinh khác nhận xét, rút ra kết luận cuối cùng, sau đó giáo viên mới nhắc nhở: các em cần lắng nghe ý kiến của bạn, khi bạn trả lời các em không nên nói leo, không nên bát bỏ ý kiến của bạn; nếu bạn trả lời chưa đúng các em có thể nhận xét và bổ sung khi các bạn đã trả lời xong; trong giờ học phải chú ý lắng nghe giáo viên giảng bài. Từ đó giáo dục các em kỹ năng lắng nghe người khác nói. Hoặc học sinh thường có thói quen trả lời trống không, không đầy đủ, giáo viên cần nhắc các em câu trả lời phải đầy đủ, chính xác. Từ đó giáo dục cho các em kỹ năng sử dụng ngôn từ. Ở địa bàn nông thôn do thói quen các em thường xưng hô với bạn bè tao mày, nói tục, chửi bậy tranh giành nhau hoặc đánh nhau. Vì vậy trong từng tiết dạy tôi luôn để ý cách trả lời của các em nếu chưa lịch sự, văn minh thì tôi nhắc nhở uốn nắn kịp thời, dạy cho các em những giá trị đạo đức cơ bản của con người, lòng nhân ái, tính trung thực, lòng tự trọng, su nghĩ và lối sống lành mạnh, trọng đạo lý, sống có kỷ luật. Kỹ năng hợp tác và chia sẻ: Là dạy cho các em biết lắng nghe người khác; trợ giúp và tôn trọng lẫn nhau; có trách nhiệm với công việc được giao, giúp các em hình thành nhân cách, biết hợp tác, đoàn kết và giúp đỡ bạn bè trong mọi hoạt động, cùng nhau hoàn thành những nhiệm vụ mà giáo viên đưa ra; đồng thời giúp các em có những kỹ năng thích ứng và xử lý tình huống, sẵn sàng tham gia vào các hoạt động chung của tập thể, cộng đồng. Trong các tiết thực hành giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng thực hành, kỹ năng hợp tác nhóm và chia sẻ giữa các thành viên trong nhóm, trong lớp; giáo viên cũng có thể phân công các em học sinh học tốt giúp đỡ, kèm cặp cho các bạn quả nghiêm trọng đối với bản thân và mọi người xung quanh. Ví dụ: Khi dạy xong bài “ Hiện tượng nhiễm điện do cọ xát” giáo viên có thể yêu cầu học sinh giải thích các hiện tượng thực tế trong đời sống hằng ngày như: Tại sao có hiện tượng sấm sét lúc trời mưa dông? Trong hiện tượng sấm sét thì tiếng sấm hay tia sét sẽ gây nguy hiểm cho con người? Từ đó đề ra các biện pháp phòng tránh tai nạn trong lúc trời mưa dông. 2.2.6. Giải pháp 6: Ứng dụng STEM vào giảng dạy môn khoa học tự nhiên Dạy học kiến thức theo định hướng STEM ở trường trung học cơ sở là hoạt động được tích hợp, lồng ghép trong bài học môn khoa học tự nhiên dựa trên các vấn đề thực tiễn, kết hợp với chuẩn kiến thức kỹ năng. Bên cạnh đó, học sinh vận dụng kiến thức Vật lý, hiểu biết về Công nghệ, Toán học để tạo ra những sản phẩm thú vị, không nhất thiết đặt nặng vấn đề tạo ra các sản phẩm phức tạp. Giáo dục STEM phù hợp tất cả học sinh và đang giúp cho học sinh ngày càng yêu thích các môn khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Học sinh tham gia hoạt động STEM, chủ yếu là thực hành, hoạt động trải nghiệm, trong đó thực hành là yếu tố quan trọng giúp học sinh rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay trong các hoạt động thí nghiệm và thực hành. Muốn áp dụng hiệu quả mô hình STEM bên cạnh giảng dạy kiến thức cũng cần có những buổi trải nghiệm thực tế, các ngày hội STEM để học sinh được thực hành áp dụng các kiến thức đã học vào đời sống, đồng thời cũng khuyến khích trẻ phát huy khả năng sáng tạo của mình. Các sản phẩm STEM có tính mới lạ đối với học sinh, kích thích được sự tò mò, hứng thú trong quá trình học tập của học sinh. Ứng dụng công nghệ vào giảng dạy nhưng không quên những vật liệu dễ dàng tìm kiếm, thân thiện, và gần gũi xung quanh từ đó giới thiệu, định hướng cho học sinh tham gia vào các tiết học ứng dụng STEM. Dưới đây là nội dung tóm tắt các bài ứng dụng STEM vào tiết dạy: Bài 16. “ Áp suất chất lỏng - Áp suất khí quyển” Nguyên lý hoạt động: Sự truyền áp suất nguyên vẹn trong lòng chất lỏng. Khi tác dụng một lực f lên pit-tông nhỏ có diện tích s, lực này gây ra áp suất p = f/s. Áp suất này được chất lỏng truyền nguyên vẹ tới pit-tông lớn có diện tích S và gây nên lực nâng F (Có hình ảnh sản phẩm đính kèm trong phụ lục) Học sinh có thể vận dụng để thiết kế nhiều sản phẩm khác nhau như máy ép thuỷ lực, cánh tay robot thuỷ lực... Đối với nội dung kiến thức phần “ Áp suất khí quyển” Mô tả nội dung hoạt động: học sinh vận dụng kiến thức nội dung bài áp suất khí quyển để thiết kế mô hình phổi hoạt động hô hấp. Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm, yêu cầu các vật dụng cần chuẩn bị như kéo, chai nhựa, bong bóng, ống hút, băng keo. Các bước tiến hành: Bước 1: Tạo lồng ngực bằng cách dùng kéo cắt lấy phần đầu của chai nhựa. Bước 2: Tạo ống khí quản và hai phế quản dùng hai ống hút ghép lại. Bước 3: Gắn cố định hai bong bóng vào hai đầu của ống hút làm hai lá phổi. Bước 4: Tạo một lỗ nhỏ trên nút chai luồng ống hút qua nút chai. Bước 5: Làm màng bọc đầu còn lại của chai bằng một bong bóng, cố định bong bóng bằng băng keo. Sản phẩm của học sinh: Thiết kế được mô hình hô hấp của phổi và giải thích nguyên lý hoạt động. Nguyên lý hoạt động: Khi dùng tay kéo màng bong bóng bên dưới chai nhựa thì hai bóng bóng bên trong chai sẽ phồng lên và xẹp xuống như khi ta hít thở. Vì khi ta kéo bong bóng ra thì không gian bên trong chai có nhiều chỗ trống hơn, nên không khí bên ngoài sẽ tràn vào chai thông qua ống hút vào hai bên trong bong bóng làm bong bóng phồng ra. Ngược lại khi ta ngưng kéo màng bong bóng thì không gian bên trong chai sẽ hẹp lại không khí sẽ ùa ra bên ngoài và làm bong bóng xẹp xuống. Hoạt động này tương tự như khi ta hít vào hai lá phổi sẽ phình ra, còn khi thở ra hai lá phổi sẽ xẹp lại.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_8_nang_cao_hung_thu.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh Lớp 8 nâng cao hứng thú học tập môn Khoa học tự nhiên, bộ sách K.pdf

