Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp Một theo Chương trình GDPT 2018
1. Tên sáng kiến: “Đổi mới phương pháp trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo
3. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Thị Thủy
Ngày, tháng, năm sinh: 06/10/1990
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo
Điện thoại: 0972.321.929
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Thị Trấn
Địa chỉ: Thị trấn Vĩnh Bảo - huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng Vĩnh Bảo
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT:
Chúng ta đang triển khai và thực hiện: “Chương trình Giáo dục phổ thông 2018”. Từ năm học 2020 – 2021 đến nay, mục tiêu của chương trình mới là nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông: kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần cho nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Mục tiêu giáo dục tiểu học không chỉ chú ý chuẩn bị cho học sinh những cơ sở ban đầu “cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông” mà còn chú ý yêu cầu “phát triển phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt”.
Như vậy, bậc Tiểu học và đầu tiên là giáo viên lớp 1 cần xác định vai trò, nhiệm vụ trọng trách của mình trước những đòi hỏi đặt ra của cái mới; là người đầu tiên dẫn dắt các em đến với con đường mở ra phía trước đầy khó khăn, thách thức song cũng đầy tương lai tốt đẹp. Muốn vậy, chúng ta tiếp tục quan tâm đến chất lượng dạy và học ngay từ lớp đầu đời, sẽ là cái gốc rễ để cho cây phát triển. Và dù chúng ta có thay đổi như thế nào thì việc rèn học sinh 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết vẫn đặt lên hàng đầu ở mỗi môn học, tuy nhiên kỹ năng đọc của các em còn rất hạn chế. Mà ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vô cùng quan trọng.
Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kĩ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Cùng với kĩ năng viết, kĩ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo,... Từ đó có điều kiện học tốt các môn học khác.
+ Ưu điểm của các giải pháp đã biết
Chương trình sách giáo khoa mới năm 2018 có kênh hình, kênh chữ rất đẹp, lôi cuốn học sinh, các từ ngữ, nội dung trong bài được đưa ra đều có nghĩa và được sử dụng trong cuộc sống hằng ngày.
Chương trình lớp 1 mới có rất nhiều ưu điểm, học sinh được phát triển kỹ năng nói tốt, các em mạnh dạn, tự tin hơn, được phát triển nhiều kỹ năng.
Tất cả học sinh trong lớp cùng thi đua rèn đọc. Nhiều em đọc có tiến bộ, đọc to, rõ ràng, trôi chảy hơn. Tốc độ đọc của các em đã cải thiện rõ rệt. Ngoài những kết quả đạt được như mong muốn, việc rèn đọc còn có tác dụng đem lại hứng thú học tập cho các em. Nhiều em bắt đầu cố gắng nỗ lực và có tính kiên trì chịu khó cao. Bên cạch những ưu điểm trên tôi thấy còn có một số tồn tại bất cập sau.
+ Bên cạnh đó còn tồn tại, bất cập của các giải pháp đã biết - Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em tiếp thu tốt, tiếp thu bài nhanh vẫn còn một số em chậm phát triển về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến do thể chất yếu ớt hay đau ốm.
- Đa số phụ huynh trong lớp là công nhân, đi làm về muộn, chưa có điều kiện quan tâm đúng mức đến con em mình, chưa tạo điều kiện để kèm cặp con em học ở nhà.
- Một số trường hợp bố mẹ đi làm ăn xa, con em ở nhà với ông bà, cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho nhà trường và thầy cô nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
- Khả năng đọc của một số em vẫn còn hạn chế, đọc chưa chuẩn văn bản, chưa đảm bảo tốc độ; không gọn từ, câu, đoạn.
Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm chúng ta phải biết được những ưu điểm, hạn chế, đặc điểm tình hình của từng đối tượng học sinh giúp học sinh phát huy hết những mặt tích cực, những ưu điểm, đồng thời khắc phục những mặt chưa tốt để học sinh hoàn thiện tốt mục đích học tập của mình. Là một giáo viên giảng dạy nhiều năm, bằng những kinh nghiệm của bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp Một theo Chương trình GDPT 2018

1. Tên sáng kiến: “Đổi mới phương pháp trong việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một theo Chương trình GDPT 2018” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo 3. Tác giả: Họ và tên: Vũ Thị Thủy Ngày, tháng, năm sinh: 06/10/1990 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Thị Trấn Vĩnh Bảo Điện thoại: 0972.321.929 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường Tiểu học Thị Trấn Địa chỉ: Thị trấn Vĩnh Bảo - huyện Vĩnh Bảo - TP Hải Phòng Vĩnh Bảo II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT: Chúng ta đang triển khai và thực hiện: “Chương trình Giáo dục phổ thông 2018”. Từ năm học 2020 – 2021 đến nay, mục tiêu của chương trình mới là nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông: kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; góp phần cho nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Mục tiêu giáo dục tiểu học không chỉ chú ý chuẩn bị cho học sinh những cơ sở ban đầu “cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông” mà còn chú ý yêu cầu “phát triển phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt”. Như vậy, bậc Tiểu học và đầu tiên là giáo viên lớp 1 cần xác định vai trò, nhiệm vụ trọng trách của mình trước những đòi hỏi đặt ra của cái mới; là người đầu tiên dẫn dắt các em đến với con đường mở ra phía trước đầy khó khăn, thách thức song cũng đầy tương lai tốt đẹp. Muốn vậy, chúng ta tiếp tục quan - Đa số phụ huynh trong lớp là công nhân, đi làm về muộn, chưa có điều kiện quan tâm đúng mức đến con em mình, chưa tạo điều kiện để kèm cặp con em học ở nhà. - Một số trường hợp bố mẹ đi làm ăn xa, con em ở nhà với ông bà, cha mẹ các em khoán trắng việc học hành cho nhà trường và thầy cô nên phần nào cũng ảnh hưởng đến việc học tập của các em. - Khả năng đọc của một số em vẫn còn hạn chế, đọc chưa chuẩn văn bản, chưa đảm bảo tốc độ; không gọn từ, câu, đoạn. Vì vậy, giáo viên chủ nhiệm chúng ta phải biết được những ưu điểm, hạn chế, đặc điểm tình hình của từng đối tượng học sinh giúp học sinh phát huy hết những mặt tích cực, những ưu điểm, đồng thời khắc phục những mặt chưa tốt để học sinh hoàn thiện tốt mục đích học tập của mình. Là một giáo viên giảng dạy nhiều năm, bằng những kinh nghiệm của bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. III. NỘI DUNG GIẢI PHÁP ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN III.1. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến 1. Giải pháp 1. Biện pháp tác động giáo dục - Từ những thưc trạng trên, giáo viên tiến hành họp phụ huynh học sinh đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở đồ dùng cần thiết phục vụ cho môn học. - Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở, uốn nắn kịp thời việc học và làm bài ở nhà của học sinh. - - Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dùng tranh ảnh và tài liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn. cong phải Nét cong kín Nhóm 4: Nét khuyết Nét khuyết trên Nét khuyết dưới Nét thắt b. Phần học âm Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau tạo thành từ và thành câu. Giai đoạn này tôi dạy cho trẻ phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo, trẻ dễ hiểu và không bị lúng túng. Ví dụ: Âm: a - a, g - g. + Âm a gồm hai nét: nét tròn nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải; a cũng gồm nét tròn và nét móc trên. + Âm g gồm: nét tròn và nét móc dưới; g gồm nối với nét cong phải. Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d - b; p - q. Ví dụ: + Âm d gồm hai nét: nét tròn nằm ở bên trái và nét sổ thẳng nằm ở bên phải: đọc là “dờ” + Âm b gồm hai nét: nét tròn nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở bên trái: đọc là “bờ” nổi nhiệt tình. Những đoạn văn hay bài văn mang tính chất cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng. c. Phần học vần Sang đến phần học vần, học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ: Chữ in hoa, chữ viết hoa nên giáo viên tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một các chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ đọc đúng phần vần, giáo viên tập cho học sinh thói quen: nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững. Ví dụ: Học vần ay: 1. Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ay: vần ay gồm 2 âm: âm a và âm y. Vị trí âm trong vần: âm a đứng trước, âm y đứng sau. 2. Đánh vần vần ay: - Hướng dẫn học sinh: âm a đứng trước ta đọc a trước, âm y đứng sau ta đọc y sau: a - y - ay - Đọc trơn vần: ay Kết hợp sử dụng bộ đồ dùng môn Tiếng Việt 1 (gồm thẻ chữ và bảng cài), cho học sinh tìm ghép âm, vần, thanh để tạo tiếng mới, từ mới trong các bài học vần. Ví dụ: Yêu cầu các em: chọn đúng 2 âm: a và y Ghép đúng vị trí: a trước y sau Nếu các em đã ghép đúng, giáo viên hướng dẫn các em cách đánh vần và đọc trơn vần như trên, các em sẽ nhận biết và đọc được vần ay. Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế, nêu áp dụng thường xuyên cho các tiết học vần, chúng ta sẽ tạo cho các em kĩ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo, giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong SGK Tiếng Việt 1 có kèm theo các tiếng, từ ứng dụng và các câu thơ, câu văn nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp, lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ. Ví dụ: Trong bài 35: Ôn tập và kể chuyện. Có bài tập đọc: Thỏ và Rùa. Một học sinh chưa đọc được tiếng “ nhởn”, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng “nhởn” bằng cách phân tích như sau: Giáo viên: Tiếng “nhởn”gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì? Học sinh: Tiếng “ nhởn” gồm có âm nh ghép với vần ơn và thanh hỏi. Giáo viên: Vậy đánh vần tiếng “nhởn” thế nào? Học sinh: nhờ- ơn- nhơn- hỏi- nhởn Giáo viên: Đọc trơn tiếng này thế nào? Học sinh: nhởn Cho học sinh đọc nối tiếp: nhởn nhơ. Sau mỗi lần đánh vần, học sinh đọc trơn nhiều lần các tiếng để khắc sâu vào trí nhớ của học sinh. 3. Giải pháp 3. Sử dụng và lựa chọn các phương tiện dạy học Trong từng tiết dạy môn Tiếng việt, để giúp học sinh tích cực và ham học giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau: - Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu. - Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu. Ví dụ: Trong phần đọc từ, có từ “vở vẽ, quả chanh, kính râm”, muốn học sinh nhận biết được sự vật và đọc được từ đó, tôi sẽ đưa ra 1 quyển vở vẽ, 1 quả chanh, chiếc lá khô, lá đỏ hay chiếc kính râm cho học sinh quan sát. Qua đó học sinh biết được “ vở vẽ, lá đỏ, lá khô, quả chanh, kính râm” dùng làm gì và đọc nhanh được từ đó. Hình ảnh: Hình ảnh slie trong bài dạy. - Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo viên. Hình ảnh: Học sinh sử dụng bộ đồ dùng môn Tiếng Việt Ứng dụng một số phần mềm luyện đọc như: âm mẫu, đánh vần mẫu, đọc mẫu. Ví dụ: Khi dạy học sinh học âm 1, giáo viên phải phát âm mẫu và cho học sinh quan sát khuôn miệng để các em “bắt chước” phát âm mới đúng được. * Phương pháp đàm thoại, vấn đáp. Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc. VD: - Chữ này là chữ gì? (chữ a, o, b, c, d....) - Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào? (chờ- anh- chanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng từ, từng câu trong mỗi ngày. * Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh. Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc yếu để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh giỏi - khá tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối với học sinh trung bình - yếu tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “Cố lên, rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các em đọc yếu, trung bình lên bàn giáo viên để cùng đọc bài với cô. Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi (nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi). Khi các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp, Sticker vv... để các em thích thú và cố gắng hơn. Để nâng dần chất lượng học sinh trong lóp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh trung bình – yếu để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn giỏi trong lớp, qua đó nêu gương một cách nhẹ nhàng cho những em khác. III.2. Tính mới, tính sáng tạo: * Tính mới Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 các bài đọc được sắp xếp theo chủ đề, nội dung bài đọc gần gũi với cuộc sống nên học sinh tiếp cận chương trình mới dễ dàng hơn. Học sinh được rèn đọc nhiều, các em sẽ đọc đúng, đọc lưu loát, đọc diễn cảm thì các em sẽ hiểu được nội dung văn bản. Khi dạy cho học sinh ta không chỉ dạy cho các em những nội dung trong sách giáo khoa mà giáo viên còn cho học sinh tìm từ mới ngoài sách để cho các em phát huy được vốn hiểu biết, vốn ngôn ngữ của các em. Giáo viên chú trọng đến việc dạy học cá nhân, phân loại học sinh theo từng nhóm để có những biện pháp khác nhau. Đánh giá học sinh theo sự tiến bộ của các em. Giáo viên động viên khen thưởng đối với những em học tốt, có tiến bộ. Đồng thời cũng tư vấn kịp thời những điểm cần khắc phục để các em tiến bộ hơn. Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực để các em thấy được: “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 có những thay đổi về đánh giá cho học sinh. Học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau để giúp nhau cùng tiến bộ. Các em được chia sẻ bài với bạn để nói nên ý kiến của mình. Phối hợp với phụ huynh để uốn nắn kịp thời việc học của các em. Từ đó giúp các em tự tin hơn trong học tập. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được xây dựng kết nối tri thức với cuộc sống, nội dung bài đọc gần gũi với các em. Sau mỗi bài đọc đều giáo dục cho các em tình yêu quê hương đất nước. * Tính sáng tạo chìa khóa để vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy giảng trên lớp, sở dụng sách giáo khoa, sách tham khảo. Từ đó có điều kiện học tốt các môn học khác. Hơn nữa nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy, cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học. Hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu, đoạn văn, bài văn mình vừa đọc. Hiểu được các lệnh, làm tốt làm nhanh được các yêu cầu trong các môn học khác. Mặt khác , ở lớp 1 các em đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Các em sẽ hứng thú, ham học, tích cực trong học tập - Đề tài mà tôi nghiên cứu không chỉ giúp cho mỗi giáo viên có thể vận dụng để rèn đọc cho học sinh lớp 1, đồng thời còn áp dụng ở tất cả các tiết học của môn Tiếng Việt và các môn học khác. - Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm vận dụng vào việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong từng môn học, từng bài học là hoạt động thường xuyên của giáo viên trong nhà trường. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư, sự kiên trì, phải biết linh hoạt vận dụng các phương phát kịp thời đúng lúc đúng chỗ. Người giáo viên phải nắm được vị trí nhiệm vụ của môn học cũng như việc dạy đọc, dạy phát âm đúng cho học sinh. Từng bước nâng cao ý thức cho phụ huynh và học sinh đối với việc rèn kĩ năng phát âm chuẩn Tiếng Việt. - Kết quả thu được không phải ngẫu nhiên mà có, mà là do sự tác động của giáo viên. Chứng tỏ vai trò hướng dẫn của người giáo viên trong rèn kĩ năng đọc là vô cùng quan trọng. Tuy kết quả chưa được mĩ mãn nhưng cũng phản ánh thành công bước đầu trong quá trình rèn kĩ năng đọc cho học sinh của tôi. Với kế hoạch tiếp tục duy trì biện pháp rèn kĩ năng đọc như đã tiến hành, tôi tin tưởng vấn đề tôi đề cập trong đề tài này việc rèn kĩ năng đọc cho các em sẽ có kết quả khác biệt. - Đề tài có thể áp dụng và nhân rộng ở các lớp trong trường Tiểu học, các bài học, các môn học có những hoạt động liên quan đến rèn đọc.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_trong_viec_ren_ki.doc