Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho học sinh Lớp 2 (bộ sách Kết nối tri thức)

Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói – đọc – viết cho học sinh. Đặc biệt trong Chương trình GDPT 2018 4 kỹ năng này lại càng được chú trọng. Đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên nên việc dạy đọc phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.

Đặc biệt đối với học sinh lớp 2, việc dạy đọc hiểu cho các em vô cùng quan trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 2 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.

Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đòi hỏi giáo viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực của học sinh. Đó cũng là những xu hướng tất yếu trong cải cách PPDH ở mỗi nhà trường.

Hơn thế nữa trong hoạt động Đọc trong môn Tiếng Việt ngoài giúp học sinh đọc đúng, đọc hay mà còn giúp học sinh có khả năng giao tiếp với thế giới bên trong của người khác thông qua hệ thống câu hỏi liên quan đến nội dung bài đọc. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, học sinh không chỉ được tiếp nhận về kiến thức mà còn khơi gợi về tâm hồn qua nội dung bài đọc theo từng chủ đề… Chính nhờ cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. Chính vì vậy mà dạy đọc hiểu có vai trò đặc biệt trong đọc nói riêng, trong dạy học ở Tiểu học nói chung.

Thực tế ở trường Tiểu học hiện nay việc dạy đọc, nhiều giáo viên còn lúng túng khi dạy đọc: Cần đọc bài tập với giọng như thế nào? Làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh? Làm thế nào để các em đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn? Làm thế nào để các em hiểu được “ văn”? Làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu? Làm thế nào để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống các em? Đó chính là trăn trở của giáo viên trong mỗi giờ dạy đọc.

Từ thực tế giảng dạy hoạt động Đọc đặc biệt là phần đọc hiểu ở trường Tiểu học, đáp ứng yêu cầu định hướng phát triển năng lực của học sinh để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 2.

docx 30 trang Thanh Ngân 24/07/2025 140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho học sinh Lớp 2 (bộ sách Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho học sinh Lớp 2 (bộ sách Kết nối tri thức)

Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao kĩ năng đọc hiểu cho học sinh Lớp 2 (bộ sách Kết nối tri thức)
 MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.........................................................................................1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU..............................................................................2
IV. PHẠM VI, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU........................................................2
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:....................................................................2
B. NỘI DUNG..........................................................................................................4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................4
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN..........................................................................................5
1. Đặc điểm chung của trường, lớp .........................................................................5
2. Thực trạng dạy học đọc của giáo viên.................................................................6
2.1. Thuận lợi ...........................................................................................................6
2.2. Khó khăn............................................................................................................6
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU CHO HỌC 
SINH LỚP 2.............................................................................................................8
1. Phân loại học sinh để dễ dàng rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh..........8
2. Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng phát triển năng lực để nâng cao kĩ 
năng đọc hiểu cho học sinh. ....................................................................................9
3. Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu qua việc hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa từ trong 
văn bản đọc cho học sinh.......................................................................................12
4. Giảm độ khó của các câu hỏi giúp học sinh trả lời đúng câu hỏi của bài đọc, 
nắm được nội dung bài. .........................................................................................15
5. Lập câu lạc bộ Tiếng Việt ..................................................................................17
IV. KẾT QUẢ ........................................................................................................20
C. KẾT LUẬN .......................................................................................................22 1
 A. PHẦN MỞ ĐẦU
 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là 
hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói – đọc – viết cho học sinh. Đặc biệt trong 
Chương trình GDPT 2018 4 kỹ năng này lại càng được chú trọng. Đọc là một 
phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc tiểu học. Đây là phân môn có vị trí 
đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng 
đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc 
có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông 
hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn 
cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học 
khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp 
của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước 
hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên nên việc dạy đọc 
phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.
 Đặc biệt đối với học sinh lớp 2, việc dạy đọc hiểu cho các em vô cùng quan 
trọng bởi các em có đọc tốt được ở lớp 2 thì khi học các lớp tiếp theo các em mới 
nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt.
 Việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) đòi hỏi giáo viên với kinh 
nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải tiến 
phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân. Một trong những định hướng 
cơ bản của việc đổi mới giáo dục là phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát 
triển năng lực của học sinh. Đó cũng là những xu hướng tất yếu trong cải cách 
PPDH ở mỗi nhà trường.
 Hơn thế nữa trong hoạt động Đọc trong môn Tiếng Việt ngoài giúp học 
sinh đọc đúng, đọc hay mà còn giúp học sinh có khả năng giao tiếp với thế giới 
bên trong của người khác thông qua hệ thống câu hỏi liên quan đến nội dung bài 
đọc. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, học sinh không chỉ được tiếp 
nhận về kiến thức mà còn khơi gợi về tâm hồn qua nội dung bài đọc theo từng chủ 
đề Chính nhờ cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc rộng 
để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen, hứng 3
- Phương pháp nghiên cứu SGK, tài liệu tham khảo.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm. 5
được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập, nó cũng là công cụ để trẻ học các môn 
khác, nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Đồng thời nó tạo ra điều kiện để học 
sinh có thể có khả năng tự học và tinh thần học cả đời. Đọc là khả năng không thể 
thiếu được của con người trong thời đại văn minh. Biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết 
nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ lô 
gic. 
 Vì thế mục tiêu quan trọng nhất là hình thành năng lực đọc cho học sinh. 
Năng lực đọc được tạo nên từ 4 kĩ năng cũng là 4 yêu cầu về chất lượng của “đọc”. 
Đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu, đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành 
trong hai hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được hình thành và 
hỗ trợ cho nhau vì vậy trong dạy đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào. 
 Mặt khác mục tiêu dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phong 
cách và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách giáo khoa. Nói cách 
khác thông qua việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả 
năng đọc là có lợi ích cho các em trong suốt cuộc đời. Phải làm cho các em thấy 
được đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống 
trí tuệ đầy đủ và phát triển. 
 Ở lớp 2, hoạt động đọc rèn cho học sinh có các kĩ năng đọc, nghe, nói. Cũng 
như ở các lớp, thông qua hệ thống bài đọc theo chủ điểm và những câu hỏi tìm 
hiểu bài, hoạt động đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên, xã 
hội và con người, cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng diễn đạt, trang bị một số 
hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật...) và góp 
phần rèn luyện nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên, các bài đọc ở chương trình lớp 
2 theo chương trình GDPT 2018 có số lượng từ nhiều hơn, việc luyện đọc bắt đầu 
chú ý đến yêu cầu biểu cảm, câu hỏi tìm hiểu bài chú trọng khai thác hàm ý nghệ 
thuật cũng nhiều hơn. 7
 2.2. Khó khăn
 - Giáo viên gặp khó khăn trong quá trình xây dựng bài giảng để thu hút học 
sinh.
 - Khả năng tiếp thu môn học Tiếng Việt đọc của các em cũng nhiều hạn chế 
so với các môn Toán hay Tự nhiên Xã hội, ở hoạt động đọc lớp 2, đa phần các em đã 
đọc được, song một số em đọc cũng chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu 
chấm, dấu phẩy, nhiều em phát âm chưa phân biệt rõ phụ âm đầu l/n, tr/ch; s/x. Đặc 
biệt học sinh trường tôi đang công tác thì đa số các em đọc còn ngọng phụ âm l/n.
 - Học sinh còn lúng túng chưa phân biệt được lời nhân vật trong đối thoại 
và lời người kể chuyện để đọc với ngữ điệu phù hợp.
 - Phần đông PHHS không thể rèn thêm cho học sinh phát âm chuẩn như 
yêu cầu trên lớp. 
 - Học sinh còn có thói quen chờ bạn bè, thầy cô làm thay, nên không có ý 
thức trả lời câu hỏi sau khi học bài. 
 - Học sinh và giáo viên chỉ lo luyện đọc cho chuẩn, ít chú trọng khâu tìm 
hiểu ý nghĩa bài học. 
 - Đa số học sinh không hiểu bài, chỉ chọn câu trả lời từ các đoạn trong SGK 
ra đọc lại. 
 Trong 2 tuần đầu, trước khi áp dụng sáng kiến, tôi đã tiến hành khảo sát học 
sinh lớp tôi và thu được kết quả như sau:
 Bảng 1: Bảng tổng hợp kết quả khảo sát đọc hiểu của học sinh đầu năm học
 Tổng Điểm 6/6 Điểm 5/6 Điểm 4/6 Điểm 1-3/6
 số học 
 SL % SL % SL % SL %
 sinh
 46 10 21,8 18 39,1 18 39,1 0 0
 Dựa vào kết quả khảo sát đọc hiểu của học sinh, tôi nhận thấy: chỉ có 10,9 % 
học sinh có kĩ năng đọc hiểu tốt, trong khi số học sinh trung bình, yếu là hơn 80 %. 9
 c) Đối với nhóm học sinh ở nhóm 3
 Tâm lý các em thường thích bộc lộ, tự tin. Giáo viên cần đòi hỏi các em ở 
mức độ cao hơn. Lấy các em làm nhân tố tích cực từ đó phát triển thêm các em khác. 
 Sau khi chia nhóm học sinh, tôi nhận thấy kĩ năng đọc của học sinh nâng cao 
rõ rệt, đặc biệt đối với các học sinh ở nhóm 1 và nhóm 2. Các em đã tự tin hơn khi 
trả lời câu hỏi trong bài theo sự hướng dẫn của cô giáo và các bạn trong lớp. Quá 
trình thảo luận nhóm các con năng động hơn trao đổi cùng các bạn.
 2. Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng phát triển năng lực để nâng 
cao kĩ năng đọc hiểu cho học sinh.
 Trước khi lên lớp, việc xây dựng kế hoạch dạy học là một việc không thể 
thiếu. Tuy nhiên để việc này phát huy được ý nghĩa thì mỗi người giáo viên cần 
xây dựng kế hoạch theo hướng đổi mới một cách tỉ mỉ, cẩn thận, đưa ra các 
phương án hiệu quả nhất. Từ đó giáo viên sẽ chủ động trong tiết dạy và việc rèn 
kĩ năng đọc hiểu cho học sinh sẽ hiệu quả hơn. 
 Trước khi lên lớp, tôi chuẩn bị bài dạy kĩ càng thông qua các hoạt động 
sau: 
 a) Hoạt động “Khởi động”: 
 Khởi động là một khâu quan trọng trong tiến trình tiết học. Nó không chỉ 
có nghĩa về mặt nghi thức mà quan trọng hơn đó là một hoạt động tác động đến 
tâm lí người học, làm cho người học vào trạng thái sẵn sàng và tích cực học tập. 
 Trong xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa 
hoạt động của học sinh, việc đầu tư các biện pháp, phương tiện dạy học cho khâu 
giới thiệu bài có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Dưới đây là một số biện pháp tác 
động tạo tâm thế đọc và tìm hiểu bài cho học sinh:
 - Lời đọc thành tiếng diễn cảm của giáo viên.
 - Sử dụng phương tiện trực quan kết hợp đàm thoại hay kể chuyện.
 - Kể chuyện. 11
 Theo tôi, hoạt động vận dụng ngoài phần hướng dẫn học sinh lặp lại điều 
mới vừa được giảng để nhớ nội dung bài nên có thêm phần hoạt động hướng học 
sinh nhìn lại các chi tiết của bài đọc, vận dụng những thông tin đã nắm được từ 
bài đọc theo một cách khác hơn, theo hướng tổng hợp và nâng cao hơn.
 Ví dụ: Dạy bài “ Yêu lắm trường ơi” (Tiếng việt 2, Tập 1 trang 55- Bộ sách 
Kết nối tri thức với cuộc sống) 
 Khi hướng dẫn học sinh, thay vì yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi trong bài như: 
 + Bạn nhỏ yêu những gì ở trường, lớp của mình?
 + Bạn nhỏ nhớ gì về cô giáo khi đến lớp không?
 Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi khác nhưng vẫn đòi hỏi học sinh 
phải vận dụng những điều, những chi tiết vừa mới nắm để trả lời, chẳng hạn như:
 + Những điều bạn nhỏ nhìn thấy khi bước chân vào ngôi trường là gì? 
 + Bạn nhỏ cảm thấy như thế nào khi ở trường, lớp?
 + Bạn nhỏ nhớ gì về cô giáo khi đến lớp?
 + Em có nhớ lần đầu tiên bước chân vào ngôi trường mới không? Hình ảnh 
nào mà đến bây giờ em vẫn còn nhớ rõ nhất? Lúc ấy em cảm thấy thế nào? 
 c) Dặn dò: 
 Theo công văn 2345 của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì không đề cập đến bước 
này. Tuy nhiên để học sinh có sự tiếp nối sau bài học và chuẩn bị tâm thế cho bài 
học mới thì không thể thiếu hoạt động này.
 Trong thực tiễn giảng dạy đọc hiện nay, bước dặn dò thường gồm các việc 
sau: lưu ý học sinh ôn lại bài đã học và hướng dẫn học sinh chuẩn bị cho tiết học 
sau theo định hướng của giáo viên. 
 Đáp ứng việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt 
động của người học, khâu dặn dò cũng bao gồm hai việc là dặn học sinh xem lại bài 
cũ và chuẩn bị bài mới. Tuy nhiên, theo tôi nội dung cần cụ thể hơn. Đó là trong việc 13
không đưa từ ấy vào ngữ cảnh của văn bản thì chỉ giúp học sinh nhận biết nghĩa từ 
chứ chưa thực sự hiểu nó. Cần xác định hiểu không đơn giản là nghe tiếp nhận, hay 
nhìn sách rồi nhắc lại. Hiểu từ là tự mình giải thích được từ ấy, rồi vận dụng điều mình 
giải thích vào việc nắm bắt nội dung văn bản đọc. Về lâu dài hiểu rõ ràng các từ như 
thế giúp học sinh có thề sử dụng chúng một cách thích hợp trong những ngữ cảnh khác 
nhau. Từ đó góp phần cho học viết, luyện tập, dùng từ thích hợp khi viết đoạn văn. 
 Ví dụ: Bài « Sự tích hoa tỉ muội » (T2.Tiếng việt 2 - trang 110). 
 Chú thích: “ Hoa tỉ muội: một loài hoa hồng, mọc thành chùm với rất nhiều 
nụ.
 Cho học sinh đọc nghĩa trong chú thích, sau đó cho học sinh gắn ý nghĩa 
đó với câu, đoạn chứa từ ấy, để các em hiểu rõ ràng “Hoa kết thành chùm, bông 
hoa lớn che chở cho nụ hoa bé nhỏ. Chúng cũng đẹp như tình chị em của Nết và 
Na. » 
 b) Phân loại các dạng từ mà học sinh cần hiểu và cách thức tổ chức cho 
học sinh hiểu nghĩa các dạng từ ấy: 
 + Từ không thể hiểu bằng ngữ cảnh và học sinh cũng chưa hề có kinh nghiệm 
nào liên quan: Đó là những từ đề cập đến sản vật địa phương, địa danh, sự kiện lịch 
sử.
 Ví dụ: Bánh tét (Bài Tết đến rồi, SGK Tiếng Việt 2 trang 19). 
 Đồng Tháp Mười (Bài Trên các miền đất nước, SGK Tiếng Việt 2 trang 
113).
 Trường Sa (Bài Khám phá đáy biển ở Trường Sa, SGK Tiếng Việt trang 
122).
 Cách giúp học sinh hiểu nghĩa các từ này là dùng tranh, vật thật, phim ảnh 
hoặc lời giải thích cụ thể sinh động của giáo viên. 
 Ví dụ : Để giúp học sinh biết về địa danh Đồng Tháp Mười tôi đã sưu tầm 
một đoạn video cho học sinh xem và giải thích thêm về địa danh này: Đồng Tháp 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_phuong_phap_day_hoc_theo_huong.docx