Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu Ngữ văn 9
1. Nghị quyết 29 – NQ/TW đã đặt ra vấn đề cho toàn ngành giáo dục là “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, xã hội chủ nghĩa vầ hội nhập quốc tế”. Bản nghị quyết này đã nhấn mạnh: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá cuối học kì, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”. Chương trình hoạt động của chính phủ thực hiện Nghị quyết 29 đã được chỉ rõ trong hội nghị TW 8 khóa XI thông qua ngày 09/11/2013 trong phần nhiệm vụ và giải pháp: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong chương trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học: đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội.”
2. Vậy thế nào là đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh? Công tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục cần có những đổi mới như thế nào để đạt được muc tiêu đổi mới căn bản theo hướng đó?
Để giảng dạy có hiệu quả, hình thành năng lực, phẩm chất của người học, mỗi cán bộ giáo viên cần hiểu rõ về đánh giá: đánh giá để phát triển học tập, đánh giá như là quá trình học và đánh giá kết quả học tập.
Đánh giá để phát triển học tập hay đánh giá vì sự tiến bộ của người học là kiểm tra đánh giá trong suốt quá trình dạy học, giúp học sinh so sánh phát hiện mình thay đổi thế nào trên con đường đạt mục tiêu học tập của cá nhân. Đánh giá như là một quá trình học cho phép học sinh phản ánh ra những suy nghĩ và tự đánh giá sự tiến bộ của mình theo mục tiêu học tập cá nhân. Đánh giá như là hoạt động học tập đòi hỏi giáo viên phải chỉ dẫn cho học sinh cách thức đánh giá thế nào, học sinh phải học được cách đánh giá của giáo viên, phải biết đánh giá lẫn nhau và biết tự đánh giá, giúp các em hình thành năng lực tụ đánh giá, đánh giá lẫn nhau… để phát triển năng lực tự học của từng học sinh. Đánh giá về kết quả học tập là cách giáo viên sử dụng chứng cứ để xác nhận kết quả học tập của học sinh theo mục và tiêu chuẩn.
3. Trong các môn học ở trường phổ thông, Ngữ Văn là một bộ môn quan trọng, một môn chìa khóa để học sinh có thể mở những cánh cửa cuộc sống. Vì thông qua môn học, học sinh không chỉ hiểu biết cái hay cái đẹp của những tác phẩm nghệ thuật mà còn rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, viết và kĩ năng ứng xử. Đây là những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống, câu nói của Macxim Grorki “Văn học là nhân học” đã khẳng định vị trí của môn học này.
4. Nhiều năm nay, việc dạy và học Văn đã có sự thay đổi. Việc ra đề mở đã giúp học sinh đỡ phải học thuộc lòng và phát huy được năng lực trí tuệ, đạo đức, biết vận dụng vào cuộc sống. Tuy nhiên đó chỉ là bước đầu. Thực tế, nhiều học sinh vẫn phải học văn mẫu, dùng văn mẫu để viết văn thật trong các kì kiểm tra, kì thi. Bởi vì việc kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Văn nói riêng ở trường phổ thông chưa phát triển được năng lực học sinh. Các bài kiểm tra, thi cử thường thiên về kiểm tra ghi nhớ máy móc, tái hiện kiến thức làm theo, chép lại. Học tác phẩm nào thi tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng sự sử dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung phương pháp day học.Việc đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh sẽ giải quyết được vấn đề này.
5. Theo các nhà nghiên cứu, năng lực chuyên biệt của môn Ngữ Văn bao gồm năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Trong đó năng lực giao tiếp có nghe, nói, đọc, viết. Năng lực cảm thụ gồm: nhận ra được giá trị thẩm mĩ của tác phẩm Văn học, biết cảm nhận, rung động trước cái đẹp, biết cảm, hiểu những giá trị của bản thân, từ đó có suy nghĩ, có những hành vi theo cái đẹp, cái thiện. Để đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá, các thầy cô giáo cần phải chú ý tới ba đặc trưng sau:
Đặc trưng thứ nhất là đánh giá phát triển: Đánh giá phát triển giúp người dạy và người học nhận ra được hiệu quả của hoạt động giảng dạy cũng như hiệu quả tiếp thu. Từ đó chỉ ra những việc cần tiếp tục thực hiện để phát triển năng lực của người học theo mục tiêu đã đề ra.
Đặc trưng thứ hai là đánh giá thực tiễn đó là đề cao mục đích xem xét các năng lực mà người học cần có trong bối cảnh thực tế. Nó đòi hỏi người học phải biết ứng dụng các kĩ năng và kiến thức được trang bị trong nhà trường để có thể tạo ra một sản phẩm hay vận dụng những kiến thức, kĩ năng này để giải quyết những tình huống trong thực tiễn cuộc sống (ngoài trường học).
Đặc trưng thứ ba là đánh giá sáng tạo: Đánh giá sáng tạo thường được sử dụng nhằm tạo động cơ cho người học, giúp họ có trách nhiệm hơn đối với việc học của chính mình. Nó cũng khiến cho việc kiểm tra, đánh giá trở thành một bộ phận thường trực của kinh nghiệm học tập và gắn chặt với những hoạt động thực tiễn, cho phép nhận dạng và kích thích khả năng sáng tạo của học sinh.
Bên cạnh đó, khi dạy những bài đọc hiểu văn bản, giáo viên cũng phải chú trọng một số yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần chú trọng tới việc đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh chứ không phải chỉ là kiến thức hay kĩ năng đọc hiểu. Điều này có nghĩa với những kiến thức, kĩ năng đọc hiểu được cung cấp, học sinh sẽ vận dụng như thế nào để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tế cuộc sống.Các câu hỏi đánh giá vì vậy cần tính đến môi trường tồn tại thực hoặc giả định nhưng phải có lí, phải chấp nhận được. Các văn bản/ngữ liệu dùng để đọc hiểu có thể là những văn bản quen thuộc, đã được học cũng có thể là những văn bản mới để học sinh có cơ hội vận dụng kiến thức kĩ năng đọc hiểu của bản thân để xử lí các yêu cầu cụ thể của câu hỏi.
Thứ hai, cần chú trọng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người đọc hạn chế tối đa những câu hỏi chỉ kiểm tra kiến thức đơn thuần hay sự ghi nhớ máy móc. Giáo viên nên đầu tư để xây dựng được kiểu câu hỏi mà học sinh có thể đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và biết cách lập luận để bảo vệ quan điểm của mình, từ đó kích thích các em phát triển tư duy phản biện, học sinh có cơ hội vận dụng những trải nghiệm của bản thân để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Điều này vừa có tác dụng khuyến khích học sinh chủ động tích lũy kinh nghiệm sống, vừa giúp cho môn Ngữ văn gần hơn, gắn bó hơn với cuộc đời.
Thứ ba, cần chú trọng tới tính đa dạng của các kiểu loại văn bản được dùng làm ngữ liệu để kiểm tra năng lực đọc hiểu của học sinh.
Qua việc tiếp thu chuyên đề do sở Giáo dục Đào tạo, Phòng Giáo dục Đào tạo tổ chức, từ việc triển khai chuyên đề: “Dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ở tổ chuyên môn, tôi đã chọn đề tài: “Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu ngữ văn 9” để nghiên cứu và thực hiện.Tuy nhiên trong bài viết này tôi chỉ tập trung trình bày qua tiết học cụ thể, phần văn học nước ngoài. Đó là bài “Bố của Xi-mông” của tác giả Guy đơ Mô-pa-xăng trong chương trình ngữ văn lớp 9.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu Ngữ văn 9

1/15 PHẦN MỘT: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Nghị quyết 29 – NQ/TW đã đặt ra vấn đề cho toàn ngành giáo dục là “Đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, xã hội chủ nghĩa vầ hội nhập quốc tế”. Bản nghị quyết này đã nhấn mạnh: “Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá cuối học kì, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”. Chương trình hoạt động của chính phủ thực hiện Nghị quyết 29 đã được chỉ rõ trong hội nghị TW 8 khóa XI thông qua ngày 09/11/2013 trong phần nhiệm vụ và giải pháp: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong chương trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học, đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học: đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội.” 2. Vậy thế nào là đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh? Công tác khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục cần có những đổi mới như thế nào để đạt được muc tiêu đổi mới căn bản theo hướng đó? Để giảng dạy có hiệu quả, hình thành năng lực, phẩm chất của người học, mỗi cán bộ giáo viên cần hiểu rõ về đánh giá: đánh giá để phát triển học tập, đánh giá như là quá trình học và đánh giá kết quả học tập. Đánh giá để phát triển học tập hay đánh giá vì sự tiến bộ của người học là kiểm tra đánh giá trong suốt quá trình dạy học, giúp học sinh so sánh phát hiện mình thay đổi thế nào trên con đường đạt mục tiêu học tập của cá nhân. Đánh giá như là một quá trình học cho phép học sinh phản ánh ra những suy nghĩ và tự đánh giá sự tiến bộ của mình theo mục tiêu học tập cá nhân. Đánh giá như là hoạt động học tập đòi hỏi giáo viên phải chỉ dẫn cho học sinh cách thức đánh giá thế nào, học sinh phải học được cách đánh giá của giáo viên, phải biết đánh giá lẫn nhau và biết tự đánh giá, giúp các em hình thành năng lực tụ đánh giá, đánh giá lẫn nhau để phát triển năng lực tự học của từng học sinh. Đánh giá về kết quả học tập là cách giáo viên sử dụng chứng cứ để xác nhận kết quả học tập của học sinh theo mục và tiêu chuẩn. 3. Trong các môn học ở trường phổ thông, Ngữ Văn là một bộ môn quan trọng, một môn chìa khóa để học sinh có thể mở những cánh cửa cuộc sống. Vì thông qua môn học, học sinh không chỉ hiểu biết cái hay cái đẹp của những tác phẩm nghệ thuật mà còn rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, viết và kĩ năng ứng 3/15 Thứ nhất, cần chú trọng tới việc đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh chứ không phải chỉ là kiến thức hay kĩ năng đọc hiểu. Điều này có nghĩa với những kiến thức, kĩ năng đọc hiểu được cung cấp, học sinh sẽ vận dụng như thế nào để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tế cuộc sống.Các câu hỏi đánh giá vì vậy cần tính đến môi trường tồn tại thực hoặc giả định nhưng phải có lí, phải chấp nhận được. Các văn bản/ngữ liệu dùng để đọc hiểu có thể là những văn bản quen thuộc, đã được học cũng có thể là những văn bản mới để học sinh có cơ hội vận dụng kiến thức kĩ năng đọc hiểu của bản thân để xử lí các yêu cầu cụ thể của câu hỏi. Thứ hai, cần chú trọng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người đọc hạn chế tối đa những câu hỏi chỉ kiểm tra kiến thức đơn thuần hay sự ghi nhớ máy móc. Giáo viên nên đầu tư để xây dựng được kiểu câu hỏi mà học sinh có thể đưa ra những ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và biết cách lập luận để bảo vệ quan điểm của mình, từ đó kích thích các em phát triển tư duy phản biện, học sinh có cơ hội vận dụng những trải nghiệm của bản thân để giải quyết các nhiệm vụ học tập. Điều này vừa có tác dụng khuyến khích học sinh chủ động tích lũy kinh nghiệm sống, vừa giúp cho môn Ngữ văn gần hơn, gắn bó hơn với cuộc đời. Thứ ba, cần chú trọng tới tính đa dạng của các kiểu loại văn bản được dùng làm ngữ liệu để kiểm tra năng lực đọc hiểu của học sinh. Qua việc tiếp thu chuyên đề do sở Giáo dục Đào tạo, Phòng Giáo dục Đào tạo tổ chức, từ việc triển khai chuyên đề: “Dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ở tổ chuyên môn, tôi đã chọn đề tài: “Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh qua giờ đọc hiểu ngữ văn 9” để nghiên cứu và thực hiện.Tuy nhiên trong bài viết này tôi chỉ tập trung trình bày qua tiết học cụ thể, phần văn học nước ngoài. Đó là bài “Bố của Xi-mông” của tác giả Guy đơ Mô-pa-xăng trong chương trình ngữ văn lớp 9. Thời gian : Học kì II năm 2021-2022 Phạm vi : Lớp 9D 5/15 Câu 4: Nêu lên diễn biến tâm trạng của Phi-líp qua các giai đoạn: khi gặp Xi-mông; trên đường đưa Xi-mông về nhà; khi gặp chị Blăng-sốt; lúc đối đạp với Xi-mông. Như vậy, có thể nói tất cả yêu cầu đối với học sinh là nghiêng về đọc hiểu, chủ yếu rèn năng lực cảm thụ giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học mà ít chú ý đến rèn luyện kĩ năng nói, năng lực phát triển suy nghĩ bản thân và đặc biệt là năng lực thực hành trong cuộc sống. Kết quả khảo sát học sinh khi chưa áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy như sau: Năm học 2021-2022 Số HS không biết Số HS biết cách Số HS làm bài tốt Lớp Sĩ số cách làm bài (1-> 4 làm bài ở mức (8-9 điểm) điểm) trung bình-khá (5- >7điểm) SL % SL % SL % 9D 45 30 66,7 15 33,3 0 0 Rút kinh nghiệm và sau khi tiếp thu việc đổi mới dạy học, kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh, tôi giảng bài này theo hướng mới. II. Giải pháp Phần 1: Chuẩn bị cho bài giảng: tôi tiến hành những bước sau: Bước 1: Chuẩn bị: 1. Chuẩn bị của học sinh -Học sinh chuẩn bị 1 tài liệu giới thiệu tác giả Mô-pa-xăng -Học sinh chuẩn bị 1 bản tóm tắt toàn bộ truyện ngắn để nói trước lớp (không đọc). -Soạn bài kĩ ở nhà theo câu hỏi sách giáo khoa. 2. Chuẩn bị của giáo viên: -Đọc kĩ toàn bộ tác phẩm. -Đọc kĩ đoạn trích trong sách giáo khoa. -Chuẩn bị một số thông tin có thực: + Một số hình ảnh người ăn xin. + Một số hình ảnh những đứa trẻ tật nguyền -Soạn giáo án theo định hướng phát triển năng lực học sinh (cụ thể ở phần sau). -Chuẩn bị câu hỏi kiểm tra. Bước 2: Thực hành giảng dạy (theo giáo án đã chuẩn bị) (Có phụ lục đính kèm) Phần 2: Xây dựng các bước trong kiểm tra đánh giá Bước 1: Xác định mục tiêu 7/15 – Cũng từ việc thu được kết quả đánh giá của học sinh, lắng nghe ý kiến của học sinh, từ đó sử dụng các phương pháp, ý tưởng để điều chỉnh hoạt động dạy học học, giáo dục nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh một cách tối đa. Có thể thấy, thông qua quy trình 05 bước, sẽ giúp học sinh phát huy một cách tối đa năng lực của bản thân; thông qua phương pháp này có thể rèn luyện cho học sinh đức tính tự giác trong học tập, giúp học sinh phản ứng nhanh trong mọi tình huống; đồng thời góp phần tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức có thể kiểm soát, quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra theo định hướng đã định sẵn. – Tuy nhiên, bên cạnh đó, giáo viên cần phải biết cách cân đối trong việc học cho học sinh, tránh trường hợp áp dụng quy trình một cách thiên lệch, không chú ý đầy đủ đến nội dung dạy học, sẽ làm cho học sinh bị mất một lượng lớn kiến thức cần có, từ đó làm mất tính cân bằng trong hệ thống kiến thức của học sinh. Phần 3: Một số phương diện đổi mới trong kiểm tra, đánh giá. 1. Đổi mới hình thức đánh giá: a) Kiểm tra miệng: + Thời gian kiểm tra: Hướng dẫn GV không nhất thiết phải kiểm tra đầu tiết học mà có thể kiểm tra trong cả quá trình dạy học ở trên lớp. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là bỏ bước kiểm tra bài cũ ở phần đầu tiết học. Bước này có những tác dụng tích cực trong quá trình dạy học. + Nội dung kiểm tra: Không nhất thiết là kiểm tra kiến thức cũ của bài học trước mà cần có sự tích hợp với nội dung bài mới. Cần chú ý đa dạng hóa các loại câu hỏi với nhiều cấp độ khác nhau (nhận biết, thông hiểu, vận dụng) b) Kiểm tra viết: Kiểm tra viết thường dùng hai hình thức là trắc nghiệm khách quan và tự luận. Hình thức trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm và những hạn chế nhất định nên tổ chỉ đạo giáo viên chỉ dùng hình thức này để kiểm tra khi đã bảo đảm những yêu cầu cơ bản nhằm khắc phục những nhược điểm của hình thức này (sẽ nói ở phần sau). Khi đánh giá HS qua kiểu bài tự luận đặc biệt là đối với phần tập làm văn, giáo viên cần chú ý các kĩ năng trình bày, diễn đạt, dựng đoạn, phân tích, tổng hợp, ; chú ý đến cách ra đề để HS làm bài bằng chính năng lực của mình, đánh giá đúng thực chất bài làm của các em (sẽ nói ở phần sau) 2. Đổi mới nội dung đánh giá: a) Chú ý kiểm tra một cách toàn diện các kiến thức, kĩ năng được học tập và rèn luyện trong chương trình Ngữ văn. b) Khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong câu trả lời hoặc bài làm của mình. Chú ý cách diễn đạt khi nói cũng như khi viết, tránh học thuộc lòng một cách máy móc. Các câu hỏi đánh giá trình độ của HS chủ yếu là ở khả 9/15 là vừa. Tuy nhiên mỗi hình thức ra đề có những ưu điểm và tồn tại riêng nên tổ đã có những định hướng nhất định để hạn chế tối đa những tồn tại đó. a) Đề ra theo hình thức trắc nghiệm: * Ưu điểm: Là hình thức thi hiện đại, thể hiện tính ưu việt trên cả hai phương diện là thi của HS và chấm của giáo viên. Trên phương diện thi, hình thức trắc nghiệm khách quan có nhiều câu hỏi nên nội dung kiểm tra toàn diện hơn, hạn chế việc người học học tủ, học lệch đồng thời phát huy năng lực tư duy nhanh nhạy của HS. Trên phương diện chấm, việc chấm cũng mất ít thời gian hơn, hạn chế được tính chủ quan của người chấm. * Nhược điểm: Đề ra thường là quá dễ hoặc quá khó, thời gian làm bài khá nhiều và thường là chỉ có 1-2 đề nên tình trạng HS xem bài nhau là phổ biến, có trường hợp HS đánh “hú họa” làm cho việc đánh giá HS qua kiểm tra không đúng thực chất hoặc dẫn đến việc học sinh chây lười, ỷ lại. Nguyên nhân: - Giáo viên chưa hiểu, hoặc không quan tâm về việc xây dựng ma trận đề. - Giáo viên chưa có điều kiện in sao nhiều mã đề cho HS. - Tinh thần tự học của HS chưa cao, những em lười học hoặc còn yếu kém thường trông chờ, ỷ lại những HS khá, giỏi. * Hướng chỉ đạo triển khai, thực hiện: + Khi kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan nhất thiết phải xây dựng ma trận theo quy trình đã tiếp thu. + Phải có nhiều mã đề trong một lần kiểm tra. Mức độ khó và phạm vi nội dung kiểm tra giữa các mã đề phải tương đương. + Chỉ tổ chức kiểm tra trắc nghiệm khách quan trong thời gian ngắn (từ 15 phút trở xuống), chú ý số lượng câu hỏi tương xứng với thời gian làm bài. Nếu đề ra có kết hợp với hình thức tự luận thì phải cho HS làm riêng phần trắc nghiệm, GV thu bài xong mới cho HS làm phần tự luận. + Giám sát chặt chẽ việc HS làm bài, hạn chế đến mức tối đa việc HS quay cóp, trao đổi bài bằng nhiều hình thức tinh vi mà ngay cả giáo viên có kinh nghiệm cũng khó phát hiện (ra dấu, qua máy tính, ) b) Đề ra theo hình thức tự luận: * Ưu điểm: Đối với bộ môn Ngữ văn thì kiểm tra theo hình thức tự luận là một hình thức phổ biến và không thể thiếu. Kiểm tra theo hình thức tự luận giúp người dạy đánh giá được một cách chính xác năng lực tạo lập văn bản của HS, đánh giá được khả năng diễn đạt, tư duy sáng tạo, cách cảm nhận riêng của từng HS (là một yêu cầu hết sức quan trọng trong việc dạy học bộ môn Ngữ văn). * Nhược điểm: - Thường là chỉ kiểm tra được một phần của nội dung kiến thức, kĩ năng được học. 11/15 giúp HS thấy được những tồn tại, thiếu sót, lệch lạc trong nhận thức, kĩ năng để hướng các em sửa chữa, khắc phục. + Chú ý cách nhận xét, chữa và phê trong bài làm của các em, nhất là đối với bài tập làm văn. Khi chấm có thể sử dụng những kí hiệu quy ước để các em dễ nhận biết. Lời phê cần rõ ràng, mang tính động viên, tránh dùng những lời lẽ khiếm nhã, ảnh hưởng đến niềm tin của các em đối với việc học tập bộ môn. + Cách cho điểm cũng dựa trên tinh thần khuyến khích, động viên nhưng phải bám vào hướng đẫn chấm. Cần chú ý và trân trọng những bài làm có sự sáng tạo hoặc suy nghĩ trái chiều nhưng hợp lí. 6. Đổi mới khâu trả bài: Bộ môn Ngữ văn có tiết trả bài riêng nên rất thuận lợi cho việc chữa bài cho các em. Nhưng trong thực tế, những năm trước đây, giáo viên cũng ít chú ý đến tiết học này. Trong giáo án thì soạn rất sơ sài, trên lớp thì chủ yếu là phát bài rồi vào điểm cho các em chính vì vậy tổ đã triển khai chuyên đề “Quy trình dạy bài tập làm văn” trong đó có chú trọng đến tiết trả bài với những yêu cầu về nội dung soạn bài cũng như dạy ở trên lớp, có triển khai dự giờ thăm lớp để đúc rút kinh nghiệm. Một số điểm cần chú ý trong tiết trả bài: + Khâu chuẩn bị: - Cần chuẩn bị bài soạn tiết trả bài một cách đầy đủ: mục tiêu cần đạt, những ưu điểm chính, những lỗi cơ bản về từng mặt và hướng khắc phục sửa chữa, những bài làm, những đoạn văn hay. - Có thể phát bài cho học sinh trước tiết trả bài 1- 2 ngày để học sinh xem trước. + Một số trình tự chính trong tiết trả bài: - Chép đề, tìm hiểu và nêu yêu cầu của đề đối với bài TLV hoặc nêu yêu cầu chính của mỗi câu hỏi và nôi dung chính cần đạt, theo hướng dẫn chấm (để HS có thể tự đánh giá bài làm của mình) - Nhận xét ưu khuyết điểm cơ bản trong bài làm của các em về nội dung và hình thức. - Phân tích và chữa lỗi. - Xây dựng dàn bài mẫu (Nếu là bài tập làm văn), - Đọc bài văn, đoạn văn hay hoặc giới thiệu những bài làm đạt điểm cao. - Trả bài (nếu chưa trả trước) - Giải đáp thắc mắc, động viên, nhắc nhở học sinh các bài làm sau. * Chú ý: Điểm đổi mới trong giờ trả bài là công khai đáp án, biểu điểm cho HS để các em tự đánh giá bài làm của mình và đánh giá ngược trở lại cách ra đề, đáp án, biểu điểm của giáo viên. Giáo viên cần khuyến khích và trân trọng những ý kiến đóng góp của học sinh, nên trao đổi thẳng thắn, cởi mở. 7. Đổi mới khâu tổ chức, quản lí: a) Chú ý công tác bồi dưỡng thường xuyên, bao gồm:
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_doi_moi_kiem_tra_danh_gia_theo_dinh_hu.doc