Sáng kiến kinh nghiệm Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông (Bộ kết nối tri thức với cuộc sống)

Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.

Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp… Chương trình GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,...; Kĩ năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,…; Kĩ năng nói và nghe tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy định trong thảo luận, phỏng vấn,…

Kĩ năng nói (KNN) được đánh giá là phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển năng lực (NL) giao tiếp bằng một ngôn ngữ của mỗi người. Cùng với kĩ năng (KN) nghe, KNN được xác định là một trong những KN cơ bản của thế kỉ XXI. Erik Palmer đã thống kê cách chúng ta sử dụng thời gian giao tiếp: Viết: 9%, Đọc: 16%, Nói: 30%, Nghe: 45%. Như vậy, chúng ta sử dụng 3/4 thời gian giao tiếp cho việc nghe và nói. Việc thiếu hụt KNN trong các hoạt động giao tiếp sẽ là một cản trở rất lớn đối với mỗi người trong xã hội. Nói là khả năng diễn đạt lời nói dưới dạng âm thanh, thể hiện ở việc người nói dùng khẩu ngữ để truyền đạt thông tin, biểu đạt tư tưởng, tình cảm một cách chính xác, sinh động, có sức thuyết phục. Làm chủ được KNN sẽ giúp người nói tạo ra mối quan hệ tốt đẹp trong giao tiếp, tự khẳng định mình và là công cụ tạo ảnh hưởng với người khác. “Một trong những hình thức gây tổn thương phổ biến và rõ ràng nhất là không lắng nghe khi người khác đang cố nói điều gì đó với bạn” (Karen Casey). Muốn cho người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là nói phải mạch lạc,logic, phải bảo đảm các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng… Vì thế, rèn luyện và phát triển kĩ năng nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy- học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Có kĩ năng nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.

Tuy nhiên, hiện nay, một bộ phận học sinh (HS) trung học còn yếu về kĩ năng nói. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó có một thực tế là bản thân giáo viên chưa chú ý đến rèn kĩ năng nói cho học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông thể hiện sự quan tâm nhất định đến việc phát triển toàn diện các KN hoạt động lời nói cho người học, trong đó có kĩ năng nói. Bởi vậy, cần thiết có một sự nhìn nhận thỏa đáng và có những nghiên cứu thiết thực để tìm ra những cách thức dạy học (DH) kĩ năng nói hiệu quả cho HS. Đó là lí do chúng tôi lựa chọn đề tài: Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông.

docx 37 trang Thanh Ngân 02/12/2024 450
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông (Bộ kết nối tri thức với cuộc sống)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông (Bộ kết nối tri thức với cuộc sống)

Sáng kiến kinh nghiệm Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung học phổ thông (Bộ kết nối tri thức với cuộc sống)
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài 
Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là 
một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở 
trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và 
phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nếu như 
nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết 
là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn 
luyện và phát triển trong nhà trường. 
Điểm khác biệt lớn nhất của Chương trình GDPT 2018 so với Chương trình GDPT 
2006 là sự chuyển hướng hoàn toàn từ chương trình coi trọng truyền đạt kiến thức 
sang chương trình chú trọng phát triển phẩm chất và năng lực, lấy các kĩ năng Nghe, 
Nói, Đọc, Viết làm trục chính. Trong đó, Chương trình GDPT 2018 đã quy định rõ 
thời lượng dành cho hoạt động nói và nghe là 10% số tiết của năm học. Lộ trình dạy 
học kĩ năng nói và nghe trong chương trình có sự nhất quán, liên tục cả ba cấp học. Ở 
cấp THPT, Chương trình định hướng người dạy tiếp tục phát triển các năng lực đã 
hình thành ở cấp trung học cơ sở với các yêu cầu cần đạt cao hơn: Nói và nghe linh 
hoạt; có khả năng nghe và đánh giá được nội dung cũng như hình thức biểu đạt của 
bài thuyết trình; có chủ kiến, cá tính, có thái độ tranh luận phù hợp Chương trình 
GDPT 2018 quy định cụ thể về các kĩ năng cần đạt trong học tập nói và nghe ở cấp 
phổ thông như sau: Kĩ năng nói yêu cầu về âm lượng, tốc độ, sự liên tục, cách diễn 
đạt, trình bày, thái độ, sự kết hợp các cử chỉ, điệu bộ, phương tiện hỗ trợ khi nói,...; Kĩ 
năng nghe yêu cầu về cách nghe, cách ghi chép, hỏi đáp, thái độ, sự kết hợp các cử 
chỉ, điệu bộ khi nghe, nghe qua các phương tiện kĩ thuật,; Kĩ năng nói và nghe 
tương tác gồm các yêu cầu về thái độ, sự tôn trọng nguyên tắc hội thoại và các quy 
định trong thảo luận, phỏng vấn, 
Kĩ năng nói (KNN) được đánh giá là phần quan trọng trong việc hình thành và phát 
triển năng lực (NL) giao tiếp bằng một ngôn ngữ của mỗi người. Cùng với kĩ năng 
(KN) nghe, KNN được xác định là một trong những KN cơ bản của thế kỉ XXI. Erik 
Palmer đã thống kê cách chúng ta sử dụng thời gian giao tiếp: Viết: 9%, Đọc: 16%, 
Nói: 30%, Nghe: 45%. Như vậy, chúng ta sử dụng 3/4 thời gian giao tiếp cho việc B. NỘI DUNG
I. Cơ sở của đề tài 
1. Cơ sở lý luận 
1.1 Khái niệm “ngôn ngữ nói” 
Theo Nguyễn Quang Uẩn, “ngôn ngữ nói là ngôn ngữ hướng vào người khác là chủ 
yếu biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan phân tích thính giác”1. 
Ngôn ngữ nói là hình thức cổ sơ nhất của lịch sử loài người. Trong sự phát sinh cá thể, 
ngôn ngữ nói cũng có trước. Ngôn ngữ nói có hai loại: 
- Ngôn ngữ đối thoại: Là loại ngôn ngữ giữa hai hay một số người với nhau. Loại 
ngôn ngữ này có những đặc điểm tâm lí riêng: trong quá trình đối thoại có sự thay đổi 
vị trí và vai trò của mỗi bên, chính sự thay đổi này có tác dụng hỗ trợ, giúp cho hai 
bên dễ hiểu nhau hơn, người nói và người nghe luôn được gặp mặt trực tiếp (nếu là 
đối thoại trực tiếp). Ngoài tiếng nói ra còn có phương tiện hỗ trợ cho ngôn ngữ như: 
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt (nếu là đối thoại gián tiếp thì không có đặc điểm này). Do đó, 
người nói có thể trực tiếp thấy được phản ứng của người nghe, từ đó có thể điều chỉnh 
lời nói của mình. 
- Ngôn ngữ độc thoại: là loại ngôn ngữ mà trong đó, một người nói và những người 
khác nghe. Đó là loại ngôn ngữ liên tục, một chiều mà không có sự hỗ trợ ngược trở 
lại. Người nói cần có sự chuẩn bị trước về nội dung hình thức và kết cấu của những 
điều định nói, đôi khi phải tìm hiểu trước về đối tượng (đối tượng người nghe). Ngôn 
ngữ cần trong sáng, dễ hiểu, chính xác. Ngôn ngữ nói độc thoại có thể tạo những căng 
thẳng nhất định cho cả người nói và người nghe, vì người nói cần chuẩn bị trước, theo 
dõi ngôn ngữ của chính mình và phản ứng của người nghe, còn người nghe cần tập 
trung chú ý trong một thời gian dài. 
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng nói 
Có nhiều cách xác định các yếu tố ảnh hưởng đến KNN của một học sinh. Các tài liệu 
tâm lí giáo dục học xác định: Trong nhiều nhân tố khác nhau ảnh hưởng đến việc học 
tập của học sinh, có ba yếu tố quan trọng nhất là động cơ học tập, thái độ học tập và 
chiến lược học. Theo đó, việc rèn luyện KNN của học sinh cũng chịu sự chi phối của 
ba nhân tố này. Góc độ giáo dục ngôn ngữ lại xác định các yếu tố ảnh hưởng đến 
KNN của một cá nhân bao gồm các yếu tố về con người, nội dung nói và các yếu tố dạy ngoại ngữ), chúng tôi xác định việc rèn luyện KNN cho học sinh trong môn Ngữ 
văn có thể được tiến hành theo ba giai đoạn, mỗi giai đoạn có mục đích, nhiệm vụ 
khác nhau và có cách thức tiến hành riêng. Quy trình này có thể được áp dụng trước 
hết vào hoạt động nói theo chủ đề. 
- Giai đoạn 1: Chuẩn bị nói (Pre-speaking) Đây khâu học sinh chuẩn bị các điều kiện 
trước khi nói, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của quá trình nói. Chuẩn bị cho 
việc nói bao gồm: 
+ Chuẩn bị nội dung: Để nội dung nói mang tính thuyết phục và tạo cảm hứng cho 
người nghe, người nói phải chuẩn bị đủ thông tin về chủ đề, nắm vững và hiểu chính 
xác các thông tin. Nếu học sinh biết trước đề tài, chủ đề nói, các em có thể thêm vào 
chủ đề những thông tin bổ sung, thông tin mới, những ý tưởng, câu chuyện dí dỏm có 
ý nghĩa để chứng minh rõ thêm, làm phong phú thêm cho vấn đề cần phải trình bày. 
Người nói cần có sự chuẩn bị về bố cục của phần nội dung sẽ trình bày: Phần mở, 
phần thân và kết luận. 
+ Tập luyện nói là một việc quan trọng và cần thiết, nhưng HS thường bỏ qua công 
việc này. KNN phải luôn được đặt trong hoạt động giao tiếp và việc luyện nói một 
cách nghiêm túc và thường xuyên là yếu tố then chốt giúp nâng cao KNN của mỗi 
người. Trong quá trình luyện nói, người nói có thể ghi chú, ước tính thời gian và chỉnh 
sửa những chỗ cần thiết về nội dung và cách thể hiện. Ngoài ra, việc tập luyện sẽ giúp 
người nói nhận ra được những khó khăn và hạn chế của mình trong lúc phát biểu. 
Theo đó, cách tốt nhất là mỗi học sinh nên ghi hình lại quá trình luyện nói của mình, 
tự xem lại để rút kinh nghiệm và nhờ người khác góp ý.
+ Chuẩn bị tâm lí trước khi nói trước nhiều người: Dù là người lần đầu tiên nói trước 
đông người hay đã phát biểu nhiều lần, học sinh đều không tránh khỏi áp lực tâm lí 
khi đứng trước đám đông. Trong cuộc nói chuyện, người nói luôn muốn những khán 
giả, thính giả của mình có thể tiếp thu một cách có hứng thú với nội dung mà mình 
truyền đạt. Dù đối tượng nghe là ai cũng đều tạo sức ép đối với người trình bày. Chính 
vì thế, chuẩn bị về tâm lí là điều quan trọng để có được một phần trình bày tốt trước 
mọi người. Giai đoạn chuẩn bị nói cần đến sự tự giác và ý thức chủ động của học sinh. 
Giáo viên có vai trò là người định hướng và nhắc nhở học sinh tự điều chỉnh. Hầu hết 
HS đều chuẩn bị nói ngoài giờ học trên lớp. Tuy nhiên, nếu có điều kiện, giáo viên - Thực tiễn tổ chức hoạt đông nói tại trường THPT chuyên Phan Bội Châu: Thực tế là, 
với giáo viên, kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều so với rèn 
luyện kỹ năng viết. Nhiều học sinh không tự tin khi nói trước đám đông. Do thời gian 
hạn hẹp, tiết đọc hiểu văn bản, tiết tiếng Việt theo chương trình Ngữ văn 11,12 hiện 
hành ít có cơ hội cho các em được trình bày, thể hiện suy nghĩ của mình. Thời gian 
tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn 10 lại có hạn (45 phút) không tạo được điều 
kiện cho tất cả học sinh được nói. Sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho 
việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ hiệu quả với 
những em khá, giỏi, chăm trong lớp còn những học sinh lười sẽ thụ động, không phát 
huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ít tham gia. Điều 
này khiến giờ học chưa phát huy được. 
Mặt khác, nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi khiến việc học ở trường vẫn 
còn nặng về kiến thức, nhẹ về kĩ năng. Điều này càng khiến việc phát triển kĩ năng nói 
chưa thực sự được giáo viên và học sinh coi trọng. Đây là nguyên nhân chính tạo nên 
sự hạn chế trong việc phát triển kĩ năng nói trong các tiết học ngữ văn tại trường, 
II. Các giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh 
1. Nhóm giải pháp cho giai đoạn chuẩn bị nói 
Đây là giai đoạn giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị giới thiệu, thuyết 
trình, trình bày nội dung, thời gian chuẩn bị tùy vào nội dung và hình thức tổ chức. 
Nhóm giải pháp gồm: - Chuẩn bị nội dung nói: thực hiện nhiệm vụ của bài tập nêu 
trong sách giáo khoa hoặc bài tập giáo viên giao, xác định đề tài (nói cái gì ?), xác 
định đối tượng giao tiếp ( nói trong hoàn cảnh nào ?), xác định mục đích giao tiếp (nói 
để làm gì), tìm thông tin phục vụ vấn đề, tìm các phương tiện phù hợp + Hoạt động 
1: Lên kế hoạch nói Để tìm ra một chủ đề cho bài nói, học sinh cần xác định các 
nhiệm vụ trong Sách giáo khoa/ nhiệm vụ giáo viên giao, đồng thời xem xét trong 
ngân hàng ý tưởng ( trao đổi với các bạn trong lớp, với gia đình, những người hàng 
xóm, họ hàng, quan sát thực tế đời sống xung quanh mình, xem các phương tiện thông 
tin đại chúng...) Cần chú ý tới những vấn đề thời sự thu hút sự quan tâm chú ý của 
nhiều người để chọn chủ đề Chẳng hạn, dạy bài Phát biểu tự do, Sách giáo khoa 
Ngữ văn 12, tập 2 có đưa ra bài tập: “Giả sử anh (chị) tham gia cuộc thảo luận về một 
cuốn sách đang được giới trẻ quan tâm, yêu thích và đã phát biểu một cách tự do Cần phải chắc chắn rằng các thông tin phải chính xác. Muốn như vậy phải tập hợp 
thông tin từ những tài liệu đáng tin cậy và đã được kiểm soát (như trong các văn bản 
cho phép phát hành, trong các luận văn, luận án đã được bảo vệ trước hội đồng đánh 
giá; các nguồn tin từ các tổ chức pháp nhân và các cá nhân đủ tư cách cung cấp hoặc 
phát ngôn. Nếu số liệu tự mình thu thập, đo đạc thì các công cụ phải đáng tin cậy và 
phải trích nguồn rõ ràng. Có thể sử dụng cả những nguồn thông tin hỗ trợ. 
d) Sắp xếp thông tin 
Khi làm việc này cần trả lời câu hỏi: đâu là thứ tự tốt nhất để trình bày thông tin của 
mình? Có thể kết hợp những yếu tố truyền thông ở đâu? 
e) Quyết định về phương tiện truyền thông sẽ sử dụng (nếu có).
Ở thao tác này HS cần trả lời câu hỏi: Bạn quyết định phương tiện truyền thông nào sẽ 
được sử dụng trong bài thuyết trình? Clip, phần mềm, các dạng phương tiện nào có 
thể sử dụng và giúp bạn đạt được hiệu quả tốt nhất khi thể hiện luận điểm của mình. Ở 
đây, có thể đưa ra một số gợi ý để HS tham khảo. Ví dụ: Băng đĩa thì cho phép thuyết 
trình những hiệu ứng âm thanh như âm nhạc, lời nói, giọng nói; Sơ đồ, tranh ảnh, 
slide, cho phép bạn thuyết trình hình ảnh một cách rất đa dạng mà không cần sử 
dụng đến máy tính; băng hình video cho phép bạn thuyết trình được cả âm thanh và 
hình ảnh cùng lúc hay những phần mềm thuyết trình trên máy tính cho phép bạn kết 
hợp âm thanh, hình ảnh để tạo ra sơ đồ grap – vẽ tranh. Bạn cũng có thể tạo ra một 
liveshow, trình chiếu slide từ một máy tính. 
Trong quá trình này, vai trò hỗ trợ của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên có thể định 
hướng, hướng dẫn học sinh ở một số phương diện sau: 
- Giáo viên lựa chọn một chủ đề trong SGK hoặc ngoài SGK, tuy nhiên, chủ đề đó 
phải gần gũi, thiết thực với học sinh; hoặc giáo viên trao quyền lựa chọn chủ đề cho 
học sinh, nếu học sinh không đề xuất được chủ đề phù hợp, giáo viên gợi ý một vài 
chủ đề cho học sinh lựa chọn. Đề tài lựa chọn có thể là kế thừa ở phần Viết trước đó 
hoặc một đề tài hoàn toàn mới mà nhóm quan tâm ở hiện tại. Chẳng hạn, trong Bài 3 - 
Nghệ thuật thuyết phục trong văn nghị luận, SGK Ngữ văn 10 (tập 1), bộ sách “Kết 
nối tri thức với cuộc sống”, ở phần Nói và nghe: “Thảo luận về một vấn đề đời sống 
có ý kiến khác nhau”, học sinh có thể kế thừa phần viết: “Viết bài luận thuyết phục HS tiến hành thảo luận, GV có thể cung cấp cho HS tham khảo, phân tích các văn bản 
sau: 
-> Văn bản 1: Nội qui tham quan bảo tàng. 
(Nguồn: https://baotanghochiminh.vn/noi-quy-tham-quan.htm) 
￿ Văn bản 2: Nghệ An: Khuyến cáo du khách không ăn mặc, tạo dáng phản cảm tại 
nơi tôn nghiêm. 
(Nguồn: https://baonghean.vn/nghe-an-khuyen-cao-du-khach-khong-an-mac-tao-
dang-phan-cam-tai-noi-ton-nghiem-post188649.html)
￿ Văn bản 3: Bản đồ du lịch chùa Hương một ngày. 
(Nguồn: https://viethanquangngai.edu.vn/ban-do-di-chua-huong) 
Từ các văn bản mẫu trên, HS nảy sinh nhiều ý tưởng cho văn bản nội quy và hướng 
dẫn tham quan triển lãm của lớp mình. 
+ Thứ hai, GV tuyển chọn, xây dựng hệ thống các hình ảnh trực quan, video clip, bản 
nhạc, tranh ảnh, phù hợp với chủ đề thảo luận, nhằm kích thích tư duy trực quan 
hình tượng ở người học, từ đó HS dễ hình dung đối tượng đúng định hướng hơn. Ví 
dụ: trong Bài 9 - Hành trang cuộc sống, SGK Ngữ văn 10 (tập 2), bộ sách “Kết nối tri 
thức với cuộc sống”, ở phần Nói và nghe: “Thuyết trình về một vấn đề xã hội có sử 
dụng kết hợp phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ”, HS có thể kế 
thừa đề tài đã học ở phần đọc và phần viết để tiếp tục triển khai dàn ý bàn về vấn đề 
Thuận lợi và áp lực của giới trẻ “gen Z” hiện nay thông qua việc tham khảo các ngữ 
liệu GV cung cấp: 
- Video: Gen Z vượt qua áp lực công việc (chương trình Cho ngày hoàn hảo, VTV2) 
- Hệ thống các bài viết với chủ đề: Áp lực gen Z, nguồn: https://viez.vn/ap-luc-gen-z-
t.html 
Với các ngữ liệu trên, HS có thể dễ dàng nảy sinh nhiều ý tưởng để giải quyết vấn đề. 
+ Thứ ba, GV có thể cung cấp hệ thống câu hỏi gợi dẫn, phiếu học tập, phiếu KWL, 
khăn trải bàn làm công cụ hỗ trợ HS giải quyết vấn đề trong quá trình TLN. Hệ 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_de_xuat_giai_phap_phat_trien_nang_luc.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Đề xuất giải pháp phát triển năng lực nói trong giờ Ngữ văn cho học sinh trung.pdf