Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học Lớp 4 (Kết nối tri thức)

Thực hiện yêu cầu đổi mới trong chương trình GDPT 2018 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đổi mới nâng cao chất lượng dạy học sao cho nền giáo dục nước nhà đạt được kết quả ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như các nước tiên tiến trên thế giới. Trong đó, đổi mới môn Khoa học ở lớp 4 cũng là một yêu cầu cần thiết góp phần đạt được những mục tiêu giáo dục đề ra. Ở lớp 4, học sinh lần đầu làm quen với môn Khoa học thay cho bộ môn Tự nhiên và xã hội ở các lớp dưới. Đối với lứa tuổi này, kiến thức mà môn Khoa học mang lại cho các em vô cùng rộng lớn, khó nhớ, khó hình thành những khái niệm ban đầu về khoa học - tự nhiên, lại có phần khô cứng. Tuy nhiên, chúng cũng khá gần gũi với thực tế, giúp các em có thể vận dụng những kiến thức môn Khoa học vào đời sống hàng ngày.

Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm chất trong đó có phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”. Đây là một phương pháp dạy học tích cực do Giáo sư Georges Charpak (người Pháp) sáng tạo và phát triển từ năm 1995 dựa trên cơ sở khoa học của sự tìm tòi - nghiên cứu. Với phương pháp này, học sinh tự lĩnh hội kiến thức mới xuất phát từ một sự vật, hiện tượng thực tế gần gũi với các em. Tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá và say mê khoa học của học sinh. Phương pháp bàn tay nặn bột còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.

Tôi nhận thấy việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn Khoa học lớp 4 nói riêng và môn Khoa học cấp Tiểu học nói chung ở các trường Tiểu học còn có những hạn chế nhất định: Một số học sinh chưa tự giác, tích cực tham gia các hoạt động học tập. Giáo viên còn ngại sử dụng phương pháp BTNB. Vậy thực trạng việc dạy học môn Khoa học như thế nào? Việc áp dụng phương pháp dạy học mới khó khăn ra sao? Do đâu mà giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong việc thực hiện dạy học môn Khoa học? Tại sao học sinh chưa thực sự hứng thú với môn học? Để trả lời cho các câu hỏi đó, tôi đã tìm hiểu thực trạng việc dạy học môn Khoa học ở lớp 4 bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống.

Ở lớp 4, dung lượng kiến thức của môn Khoa học là rất lớn. Khó khăn lớn nhất của giáo viên trong dạy học môn Khoa học đó là việc vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột. Một số giáo viên còn lúng túng, chưa hiểu đúng, hiểu sâu mục tiêu của phương pháp này nên vận dụng một cách hình thức, hời hợt. Trong khi cần chú trọng việc hình thành cho học sinh phương pháp học tập, rèn kỹ năng và thói quen tự tìm tòi nghiên cứu trước các sự vật, hiện tượng tự nhiên thì không ít giáo viên lại yêu cầu học sinh đọc thuộc lòng, áp đặt kiến thức, bắt học sinh phải công nhận kiến thức khoa học một cách miễn cưỡng. Điều đó vô tình giáo viên làm mất đi khả năng sáng tạo của học sinh, không phát huy được tính tìm tòi ham hiểu biết của các em. Dần đến hiệu quả giờ học chưa cao. Mặc dù các em đó biết làm việc tập thể, biết trao đổi, trình bày ý kiến cá nhân, biết làm một số thí nghiệm thực hành đơn giản nhưng giờ học thiếu sinh động, không khí học tập cũng nặng nề. Các em ít tò mò, ít đặt ra những câu hỏi thắc mắc và hầu như mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em được tìm hiểu, sự lập luận, kỹ năng thực hành còn vụng về, lúng túng. Việc vận dụng những kiến thức mà các em thu thập được vào thực tiễn còn hạn chế bởi các em thiếu kỹ năng thực hành. Các em chưa có thói quen ghi lại những gì mà các em quan sát được, chưa chủ động trong việc xác định mục đích quan sát và thí nghiệm, chưa nắm vững và nhớ lâu kiến thức đã học.

Những kết quả mà phương pháp bàn tay nặn bột mang lại có thể nói được hầu hết giáo viên công nhận. Tuy nhiên, Khi áp dụng vào thực tế, dự giờ, trao đổi cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy thực trạng của việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn Khoa học của giáo viên cũng còn nhiều hạn chế. Vậy nguyên nhân nào dần đến tình trạng đó? Bản thân tôi đã tìm hiểu và thấy được nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do giáo viên chưa sử dụng tốt phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học môn Khoa học.

Từ những lí do trên, để áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn Khoa học lớp 4 hiệu quả, tôi mạnh dạn lựa chọn Sáng kiến kinh nghiệm có tên gọi: “Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học lớp 4 (KNTT)” .

docx 12 trang Thanh Ngân 19/02/2025 1090
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học Lớp 4 (Kết nối tri thức)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học Lớp 4 (Kết nối tri thức)

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn Khoa học Lớp 4 (Kết nối tri thức)
 2
 BÁO CÁO SÁNG KIẾN
 I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
 Thực hiện yêu cầu đổi mới trong chương trình GDPT 2018 về “Đổi mới 
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đổi 
mới nâng cao chất lượng dạy học sao cho nền giáo dục nước nhà đạt được kết 
quả ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như các nước tiên tiến trên thế 
giới. Trong đó, đổi mới môn Khoa học ở lớp 4 cũng là một yêu cầu cần thiết góp 
phần đạt được những mục tiêu giáo dục đề ra. Ở lớp 4, học sinh lần đầu làm quen 
với môn Khoa học thay cho bộ môn Tự nhiên và xã hội ở các lớp dưới. Đối với 
lứa tuổi này, kiến thức mà môn Khoa học mang lại cho các em vô cùng rộng lớn, 
khó nhớ, khó hình thành những khái niệm ban đầu về khoa học - tự nhiên, lại có 
phần khô cứng. Tuy nhiên, chúng cũng khá gần gũi với thực tế, giúp các em có 
thể vận dụng những kiến thức môn Khoa học vào đời sống hàng ngày.
 Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh phát triển các 
năng lực và phẩm chất trong đó có phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”. Đây 
là một phương pháp dạy học tích cực do Giáo sư Georges Charpak (người Pháp) 
sáng tạo và phát triển từ năm 1995 dựa trên cơ sở khoa học của sự tìm tòi - nghiên 
cứu. Với phương pháp này, học sinh tự lĩnh hội kiến thức mới xuất phát từ một 
sự vật, hiện tượng thực tế gần gũi với các em. Tạo nên tính tò mò, ham muốn 
khám phá và say mê khoa học của học sinh. Phương pháp bàn tay nặn bột còn 
chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết 
cho học sinh.
 Tôi nhận thấy việc áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn Khoa 
học lớp 4 nói riêng và môn Khoa học cấp Tiểu học nói chung ở các trường Tiểu 
học còn có những hạn chế nhất định: Một số học sinh chưa tự giác, tích cực tham 
gia các hoạt động học tập. Giáo viên còn ngại sử dụng phương pháp BTNB. Vậy 
thực trạng việc dạy học môn Khoa học như thế nào? Việc áp dụng phương pháp 
dạy học mới khó khăn ra sao? Do đâu mà giáo viên còn lúng túng khi vận dụng 
phương pháp Bàn tay nặn bột trong việc thực hiện dạy học môn Khoa học? Tại 4
 Từ những lí do trên, để áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong môn 
Khoa học lớp 4 hiệu quả, tôi mạnh dạn lựa chọn Sáng kiến kinh nghiệm có tên 
gọi: “Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” 
trong dạy học môn Khoa học lớp 4 (KNTT)” .
 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
 1. Mô tả giải pháp trước khi có sáng kiến.
 Giải pháp 1: Phương pháp giảng giải thầy giảng - trò nghe
 * Ưu điểm: Rõ ràng và chi tiết, kiểm soát được thời gian, lượng kiến thức 
tiếp thu lớn.
 * Nhược điểm:
 - Thiếu tính tương tác: Học sinh hầu như không có cơ hội tham gia trao 
đổi ý kiến trong quá trình học tập.
 - Không có tính cá nhân hóa: Không thể tiến hành dạy học sao cho phù 
hợp với trình độ của từng cá nhân riêng biệt.
 - Khó khăn trong việc tạo sự chú ý ở học sinh: Việc ngồi nghe giảng giải 
trong thời gian dài có thể làm giảm hiệu quả học tập.
 - Hạn chế khả năng sáng tạo và tư duy giải quyết vấn đề: Phương pháp 
giảng giải tập trung vào việc giải thích từ người giảng dạy, dẫn đến việc học sinh 
không có không gian tự tìm hiểu và phát triển khả năng nghiên cứu độc lập.
 Giải pháp 2: Chú trọng cung cấp kiến thức cho học sinh, không chú 
trọng nhiều hoạt động thực tiễn của học sinh.
 Nhược điểm: Học sinh thụ động tiếp thu kiến thức và thừa nhận kiến thức 
các em không có cơ hội bộc lộ để phát triển các năng lực và phẩm chất.
 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến.
Giải pháp 1: Giáo viên tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu phương pháp “Bàn 
tay nặn bột”
 Bản thân tôi cũng đã từng dạy bài môn Khoa học theo phương pháp “ Bàn 
tay nặn bột”. Để đạt được hiệu quả khi sử dụng phương pháp này tôi đã dành thời 
gian nghiên cứu tìm hiểu trên mạng internet, các tài liệu để hiểu rõ Phương pháp 6
 - Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS 
đề xuất câu hỏi.
 - GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp 
từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh
b) Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu.
 - Từ những câu hỏi của HS, GV nêu câu hỏi cho HS đề nghị các em đề 
xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.
 - GV ghi chú lên bảng các đề xuất của HS để các ý kiến sau không trùng 
lặp.
 - Khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của GV nhận 
xét. Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
 - Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật
 - Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, GV giúp HS 
đề xuất câu hỏi.
 - GV cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp 
từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học để giúp học sinh so sánh
Bước 5: Kết luận kiến thức mới
 - Giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại kết luận sau khi thực nghiệm.
 - Sau đó giáo viên sẽ kết luận và hệ thống lại kiến thức của bài.
 - Tùy từng bài, giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng cách cho 
học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với những ý kiến ban đầu.
Giải pháp 2: Nghiên cứu nội dung chương trình Khoa học lớp 4, lựa chọn bài 
dạy và xác định nội dung kiến thức áp dụng phương pháp BTNB
 Phương pháp Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học tích cực dựa 
trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự 
nhiên. “Bàn tay nặn bột”, chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh 
bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các 
vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, 
nghiên cứu tài liệu hay điều tra... Không phải bài nào cũng áp dụng và phát huy 8
tự nhiên” (trang 9, Khoa học 4, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống)
 - Để thực hiện bước này, tôi chọn tình huống xuất phát ngắn gọn, dễ hiểu, 
gần gũi với học sinh. Câu hỏi nêu vấn đề cần phải gây mâu thuẫn nhận thức và 
kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, khám phá của học sinh. Tôi luôn chọn những 
câu hỏi “mở” tuyệt đối không sử dụng những câu hỏi đóng để nêu vấn đề.
 - Tôi cho học sinh quan sát: đá lạnh, muối bột, nước lọc, cốc nước nóng 
đang bốc hơi và đặt câu hỏi nêu vấn đề: Theo các em, trong tự nhiên nước tồn tại 
ở những dạng nào? Em biết gì về sự tồn tại của nước?
 - HS của thực sự hào hứng ngay từ đầu tiết học. Các em “vào cuộc” một 
cách thoải mái, bắt đầu cuộc “khám phá” thú vị.
*Bước 2: Bộc lộ biểu tượng (quan niệm) ban đầu của học sinh.
 Trong bước này, tôi khuyến khích Học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức 
ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới bằng nhiều cách khác nhau như bằng 
cách nói, viết hay vẽ. Tôi tuyệt đối không biểu lộ thái độ không đồng tình với 
những biểu tượng (quan niệm) chưa đúng của học sinh. Vì vậy, học sinh trong 
lớp tôi không còn e ngại, các em dần mạnh dạn, tự tin khi trình bày những suy 
nghĩ của mình. Không khí lớp học thực sự sôi nổi.
 Ví dụ 2: Đối với bài học này, tôi giao nhiệm vụ: Theo các em, trong tự 
nhiên nước tồn tại ở những dạng nào? Em biết gì về sự tồn tại của nước? Các em 
hãy suy nghĩ và đưa ra ý kiến của mình về vấn đề này, ghi lại ý kiến (có thể ghi 
chép bằng lời, bằng hình vẽ).
Ví dụ về một vài suy nghĩ, nhận thức ban đầu của học sinh:
 + Nước tồn tại ở dạng đông đặc.
 + Nước tồn tại ở dạng cứng.
 + Nước tồn tại ở dạng lỏng.
 + Nước tồn tại ở dạng khí.
 + Nước có thể tồn ở dạng hơi.
 Thể hiện bằng hình vẽ sơ đồ về sự chuyển thể của nước nước ở thể lỏng, 
thể rắn, thể khí. 10
Giải pháp 4: Lựa chọn và sử dụng thiết bị dạy học hiệu quả trong phương pháp 
Bàn tay nặn bột.
 Cần phải khẳng định rằng thiết bị dạy học là một phần không thể thiếu của 
quá trình dạy học. Đặc biệt là đối với phương pháp Bàn tay nặn bột, trong bước 
thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, Thiết bị dạy học làm cho tiết học trở nên sinh 
động và dễ hiểu. Học sinh được tri giác trực tiếp đối tượng, được tự mình kiểm 
chứng những hiện tượng khoa học xảy ra. Thiết bị dạy học giúp nâng cao hứng 
thú học tập, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học. Trong phương pháp 
Bàn tay nặn bột, thiết bị dạy học tôi sử dụng bao gồm cả thiết bị dạy học truyền 
thống (bảng đen, phấn trắng, mô hình, vật thật, tranh ảnh, dụng cụ thí nghiệm,...) 
và các thiết bị dạy học hiện đại (như máy tính, máy chiếu, băng đĩa). Việc kết 
hợp hài hòa giữa các loại thiết bị dạy học sẽ tạo được hứng thú, tăng hiệu quả học 
tập cho học sinh. Tuy nhiên, chúng ta cần phải sử dụng thiết bị dạy học phù hợp, 
đúng lúc, đúng chỗ để tạo được hiệu quả cao nhất. Chẳng hạn ở bước “ Tình 
huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề”, tôi thường sử dụng tranh ảnh hay video 
khoa học để kích thích hứng thú nhận thức và khơi dậy những quan niệm ban đầu 
vốn có của các em về chủ đề nghiên cứu. Như vậy chuẩn bị đồ dùng dạy học, dự 
kiến phương án tìm tòi và thực hiện các thí nghiệm đảm bảo thành công trước khi 
tổ chức dạy học. Bước đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay các giải pháp tìm câu 
trả lời của học sinh cũng là một bước khá phức tạp, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ 
năng sư phạm để điều khiển tiết học, tránh để học sinh đi quá xa yêu cầu nội dung 
của bài học. Chính vì vậy mà giáo viên phải có sự chuẩn bị chu đáo về các vật 
dụng để làm thí nghiệm, dự kiến phương án tìm tòi và thực hiện trước các thí 
nghiệm để đảm bảo tiết dạy thành công bởi vì có nhiều thí nghiệm phải làm đi 
làm lại nhiều lần mới ra kết quả.
 Đối với ý kiến hay vần đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm 
chứng minh thì giáo viên có thể cho học sinh trả lời trực tiếp phương án mà học 
sinh đề xuất.
 Giải pháp 5: Coi trọng kỹ thuật dạy học và rèn kỹ năng cho học sinh 12
qua đó các em dần hình thành và được rèn luyện phương pháp tự học và nghiên 
cứu khoa học.
 Ở độ tuổi này học sinh phát triển về mặt tri nhận, mối quan hệ xung quanh 
được xây dựng dần như bằng cách sờ mó, thường xuyên đặt câu hỏi tại sao. Đây 
là biểu hiện của hai năng lực khoa học ở học sinh: thử nghiệm và tiếp xúc.
 IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN:
 Tôi xin cam đoan báo cáo sáng kiến “Biện pháp nâng cao hiệu quả sử 
dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn khoa học lớp 4”. không 
sao chép, không vi phạm bản quyền.
 Trên đây là báo cáo sáng kiến “Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng 
phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học môn khoa học lớp 4”mà tôi đã cố 
gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm 
tạo hứng thú phát huy tính tích cực của học sinh để học sinh có cơ hội phát triển 
về các năng lực và phẩm chất. Tuy việc triển khai vận dụng sáng kiến trên đã thu 
được kết quả tốt song không tránh khỏi còn những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất 
mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của các cấp, ngành và đồng nghiệp
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Xuân Thượng, ngày 18 tháng 4 năm 2024
 XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
 Trần Thị Thu Hiền
 PHÒNG GDĐT XUÂN TRƯỜNG
 (Xác nhận, đánh giá, xếp loại)

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_su_dung_ph.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy họ.pdf