Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh Lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Kết Nối Tri Thức
Trong chương trình giáo dục phổ thông 2018, môn Toán có vai trò quan trọng cùng với các môn học khác đào tạo ra những con người phát triển toàn diện. Chương trình Toán lớp 3 được coi là tiền đề, nền tảng góp phần thực hiện mục tiêu Toán tiểu học.
Trong chương trình môn Toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán, các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.
Dựa trên thực trạng dạy và học môn Toán ở lớp 3 nói chung, dạy học sinh giải toán có lời văn nói riêng, tôi muốn đưa ra một số ý kiến đổi mới để giúp các em nắm chắc được cách giải toán này, tránh không bị nhầm lẫm, yêu thích môn Toán hơn. Từ đó các em có vốn kĩ năng tính toán chính xác hơn, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Tạo cho các em tác phong học tập và làm việc có suy nghĩ, có kế hoạch, có kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có chí vượt khó khăn, cẩn thận, kiên trì, tự tin.
Bên cạnh đó, giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kỹ năng suy luận, kĩ năng tính toán và tập dượt khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi. Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của người lao động như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể.
Đó là một điều hết sức quan trọng, nó giúp các em định hướng trong không gian, gắn liền việc học với cuộc sống xung quanh, là tiền đề để hỗ trợ các môn học khác như môn: Mĩ thuật, Công nghệ và Tự nhiên xã hội, là mảng kiến thức quan trọng cho học lên cao. Đồng thời có thể giải quyết những bài toán thực tế xung quanh mình.
Do vậy trước thực tế đó, để giúp học sinh giải toán tốt (phần giải toán có lời văn) là một việc làm cần thiết đối với giáo viên tiểu học, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán. Bản thân tôi luôn trăn trở nhiều về vấn đề dạy học môn Toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng. Chính vì vậy tôi quyết định tìm hiểu đề tài: “Biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh Lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn theo bộ sách Kết Nối Tri Thức
Đó là một điều hết sức quan trọng, nó giúp các em định hướng trong không gian, gắn liền việc học với cuộc sống xung quanh, là tiền đề để hỗ trợ các môn học khác như môn: Mĩ thuật, Công nghệ và Tự nhiên xã hội, là mảng kiến thức quan trọng cho học lên cao. Đồng thời có thể giải quyết những bài toán thực tế xung quanh mình. Do vậy trước thực tế đó, để giúp học sinh giải toán tốt (phần giải toán có lời văn) là một việc làm cần thiết đối với giáo viên tiểu học, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán. Bản thân tôi luôn trăn trở nhiều về vấn đề dạy học môn Toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng. Chính vì vậy tôi quyết định tìm hiểu đề tài: “Biện pháp giúp học sinh lớp 3 thực hiện tốt giải toán có lời văn”. 2. Đối tượng áp dụng - Giáo viên dạy lớp 3 và học sinh lớp 3. II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP 1. Mục tiêu của biện pháp Nghiên cứu và làm sáng tỏ một số khó khăn, tồn tại trong quá trình giải toán có lời văn ở lớp 3. Tìm ra một số biện pháp cụ thể nhằm hình thành và phát triển kĩ năng giải các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 3. Giúp học sinh lớp 3 biết cách giải và trình bày bài toán có lời văn, nắm chắc và thực hiện đúng quy trình bài toán. 2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn để xây dựng biện pháp 2.1. Cơ sở lý luận Như chúng ta đã biết, bậc Tiểu học có vai trò quan trọng, là bậc học nền tảng. Đặc biệt, môn Toán 3 có vai trò đặc biệt vì nó vừa củng cố, vừa bổ sung, vừa hoàn thiện các kỹ năng cơ bản của môn Toán ở giai đoạn đầu cấp. Chuẩn bị cho việc học Toán ở giai đoạn cuối cấp Tiểu học (lớp 4 – 5). Chương trình toán 3 bao gồm 18 chủ đề. Mỗi chủ đề được phân chia thành các bài học, mỗi bài học đều được mở đầu bằng một tình huống thực tế có 2 chưa nhanh và chưa chính xác. Điều này đã làm mất thời gian trong các giờ học và không tạo được hứng thú học toán cho học sinh. 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế - Việc sử dụng các phương pháp, hình thức và phương tiện, thiết bị đồ dùng dạy học khi giải toán có lời văn còn nhiều hạn chế. Đa số giáo viên chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên. Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách máy móc, ít quan tâm đến việc phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Chưa thực sự là người tổ chức hướng dẫn giờ học để học sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, với những hình thức tổ chức như thế đã ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu kiến thức mới của các em, dẫn đến việc học sinh giải toán một cách máy móc thiếu tư duy khoa học và sáng tạo. - Năng lực nắm bắt kiến thức, khả năng tư duy, lập luận, nhận dạng toán, xác định bước giải, trình bày lời giải, phép tính, khả năng tính toán, xác định đơn vị đo lường, trình bày bài giải, khả năng phán đoán, liên hệ bài toán với thực tế,... khi học giải toán có lời văn còn nhiều hạn chế. Các em nắm chưa vững cấu trúc, cách giải của bài toán, chưa thực sự sáng tạo để đưa ra cách giải tốt nhất cho mình dẫn tới năng lực vốn có của cá nhân các em ít có cơ hội phát triển. Vì vậy việc tìm ra các dữ kiện của bài toán rất khó khăn. - Chưa hứng thú khi học bài, làm bài toán giải toán có lời văn. 3. Nội dung biện pháp 3.1. Biện pháp 1: Hình thành kỹ năng đọc, phân tích, nhận dạng các bài toán a) Hình thành kĩ năng đọc và phân tích đề cho học sinh Muốn học sinh nắm chắc và hiểu được đề bài, thì giáo viên phải làm được như sau: - Học sinh phải đọc nhiều lần (bằng nhiều hình thức: đọc nhẩm, đọc cá nhân trước lớp). - Học sinh nhắc lại được nội dung chính của bài không cần nhìn sách. 4 Bố : gấp 4 lần tuổi con Bố : .... tuổi? Giáo viên cho học sinh nhìn vào tóm tắt nêu lại nội dung bài toán đó để học sinh nhớ được lâu. Như vậy học sinh đã nắm được chắc bài toán, hiểu được bài từ đó học sinh sẽ hình thành được cách làm tốt hơn và chính xác hơn. Qua đây tôi nhận thấy rằng việc phân tích yêu cầu bài toán rất quan trọng bởi nó giúp học sinh hiểu được nội dung bài chắc hơn. b) Hình thành kĩ năng nhận diện các dạng toán Để giải được bài toán thì học sinh phải hiểu đề bài, hiểu các thành phần của nó. Những dữ kiện nào đã cho và những dữ kiện nào cần tìm. Dựa vào đó mà có thể phân loại các bài toán. Từ đó áp dụng các bước giải phù hợp. - Dạng toán giải bài toán bằng hai phép tính: * Ví dụ 2: (Bài 4, trang 84 SGK Toán 3 - KNTT) Trong ngày hội trồng cây, Việt trồng được 5 cây. Số cây Rô-bốt trồng được gấp 3 lần số cây của Việt. Hỏi cả hai bạn trồng được bao nhiêu cây? Cây phong ba và cây bàng vuông là loài cây có ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Nhân dịp Tết trồng cây, người ta trồng 9 cây phong ba và trồng số cây bàng vuông nhiều gấp 4 lần số cây phong ba. Hỏi tổng số cây phong ba và cây bàng vuông đã được trồng trong dịp này là bao nhiêu cây? Giáo viên nêu câu hỏi để hướng dẫn học sinh giải. - Đây là bài toán thuộc dạng nào? (Bài toán giải bằng hai phép tính) - Muốn tìm được số cây cả hai bạn trồng được em làm thế nào? (Phải biết số cây của Việt và số cây của Rô-bốt là bao nhiêu) - Bài toán đã cho biết gì? (Việt trồng được 5 cây. Số cây Rô-bốt trồng được gấp 3 lần số cây của Việt) - Làm thế nào để tìm được số cây Rô-bốt trồng được? (5 x 3 = 15) - Tìm số cây của cả hai bạn trồng được em làm như thế nào? (5 + 15 = 20) - Dạng bài toán có đơn vị đo khối lượng: 6 Một lớp học có 29 học sinh. Mỗi bàn chỉ xếp chỗ ngồi cho 2 học sinh. Hỏi cần ít nhất bao nhiêu bàn cho lớp học đó? Học sinh đã phân tích và nắm vững được đề toán, từ đó ta hướng dẫn học sinh nhận dạng bài toán bằng câu hỏi: + Bài toán thuộc dạng toán nào? (Phép chia có dư) + Số dư trong phép chia đó chính là số học sinh thừa ra. Vậy có cần đến bàn không và là mấy bàn? Từ đó học sinh đã xác định được cách làm bài chính xác. Bước này ngược lại với bước phân tích ở trên. Dựa vào phân tích ở trên các em vạch ra được thứ tự trình bày lời giải. Cần tìm điều gì trước, điều gì sau sao cho hợp lí. (Những gì tìm được nhờ vào những dữ kiện cho sẵn trong bài sẽ được trình bày trước để làm cơ sở cho phần sau). Bước này giúp học sinh trình bày lời giải một cách chặt chẽ, logic. *Hướng dẫn trình bày bài giải Để học sinh có một trình tự giải bài bài toán có lời văn thì trước hết phải xác định cho học sinh thấy rõ các bước giải của bài toán đó. Nếu làm tốt các bước trên thì chắc chắn học sinh sẽ có một bài giải đúng, trình tự thích hợp. Ví dụ 1: Một cửa hàng buổi sáng bán được 432 l dầu, buổi chiều bán được gấp đôi buổi sáng. Hỏi cả hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu? - Bước 1: Giáo viên cho học sinh đọc và phân tích bài toán: + Bài toán hỏi gì? (Cả hai buổi cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu?) + Muốn biết cả hai buổi ta phải làm gì? (Tìm số lít dầu đã bán buổi chiều?) Cho học sinh tóm tắt bài toán: Sáng : 432 l ? lít dầu Chiều: 8 miệng: “Tìm số mét đường đã sửa:” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính). Ví dụ: Một đội công nhân phải sửa quãng đường dài 1215m, đội đã sửa 1 được quãng đường. Hỏi đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường 3 nữa? Để giải được bài toán này, học sinh cần phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý như: + Bài toán cho biết gì? (phải sửa quãng đường dài 1215m) 1 + Bài toán còn cho biết gì nữa? (đã sửa được quãng đường) 3 + Bài toán hỏi gì? (Đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu m đường nữa?) + Muốn biết đội công nhân đó còn phải sửa bao nhiêu mét đường nữa trước hết phải tìm gì trước? Nêu cách tìm? (Tìm số mét đường đã sửa) + Sau khi tìm được số mét đường đã sửa ta tiếp tục tìm gì? (Tìm số mét đường còn phải sửa) + Nêu cách tìm? (Lấy tổng số mét đường phải sửa trừ đi số đã sửa) Số mét đường đã sửa là: 1215 : 3 = 405 (m) Đáp số: 405 mét Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp. Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định. 10 Đối với học sinh hoàn thành tốt, giáo viên có thể hướng các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 3.2. Biện pháp 2: Hình thành và phát triển các năng lực quan sát, ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy qua các bài toán Chương trình tổng thể Ban hành theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 nêu rõ "Giáo dục toán học hình thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học với các thành tố cốt lõi: năng lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình học toán học, năng lực giải quyết vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương tiện học toán; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn, giáo dục toán học tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa toán học với các môn học khác và giữa toán học với đời sống thực tiễn". Sách giáo khoa toán 3, bộ sách KNTT chủ yếu là kênh hình. Đa số các bài toán có lời văn đều được minh họa bằng hình ảnh trực quan. Vì vậy để nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3, tôi đã tăng cường dạy học sinh biết quan sát các mô hình, sơ đồ, từ đó cũng dễ dàng tìm ra cách giải. Ví dụ: Trong bài Bảng nhân 9, có bài 5 như sau: a) Trên mỗi thuyền có 9 người. Hỏi trên 5 thuyền như vậy có bao nhiêu người? Ta có thể diễn đạt bằng một trong các sơ đồ sau: * Sơ đồ : 9 người 1 thuyền: 5 thuyền: Bên cạnh đó, tôi tập cho học sinh có năng lực ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ máy móc để học thuộc và nắm vững các quy tắc, công thức. Tập cho học 12 Việc hướng dẫn học sinh phân tích, nhận dạng đề toán có vai trò hết sức quan trọng trong qúa trình giải bài toán, bởi các em chỉ có thể giải bài toán một cách chính xác khi các em đã nắm vững yêu cầu của bài toán đó. Chính vì vậy, tôi đặc biệt chú ý đến việc hướng dẫn học sinh phân tích đề toán và nhận dạng bài toán. Với mỗi bài toán, tôi thường yêu cầu học sinh đọc đề toán ít nhất là 3 lần và sau khi đọc đề toán cần phải xác định được: Đề toán cho biết những gì? Đề toán yêu cầu ta phải tìm cái gì? Thời gian đầu, tôi trực tiếp hỏi học sinh những câu hỏi đó. Khi học sinh trả lời trước lớp, tôi luyện cho các em cách trả lời những câu hỏi này không phải là đọc lại đề bài một cách máy móc mà phải thực sự hiểu những số liệu mà đề bài đã cho cũng như những cái mà đề toán yêu cầu phải tìm. Ví dụ: Mai gấp được 10 cái thuyền, Nam gấp được ít hơn Mai 3 cái thuyền. Hỏi cả hai bạn gấp được bao nhiêu cái thuyền? ( Bài 2, trang 82 của bài: Bài toán giải bằng hai bước tính) Sau khi học sinh đọc kỹ đề bài, tôi hỏi: - Bài toán cho chúng ta biết những gì? Cả lớp đều giơ tay. Một học sinh được gọi đã trả lời: Bài toán cho biết: Mai gấp được 10 cái thuyền, Nam gấp được ít hơn Mai 3 cái thuyền Tôi hỏi lại: “Vậy bài toán cho biết số cái thuyền Mai gấp được là bao nhiêu?” thì số học sinh giơ tay giảm đi một nửa. Điều đó cho thấy rằng khi được cô giáo hỏi “Bài toán cho biết những gì?” thì các em chỉ đọc lại đề một cách máy móc chứ chưa hiểu thật chính xác những số liệu mà đề toán đã cho. Do vậy, tôi nhắc các em khi đọc đề toán cần nắm chắc, hiểu rõ những số liệu mà đề toán đã cho. “Mai gấp được 10 cái thuyền” chính là “số cái thuyền Mai gấp được là 10 cái” Cũng như vậy, khi tôi hỏi “Bài toán yêu cầu ta tìm cái gì?” thì học sinh đều trả lời là “Hỏi cả hai bạn gấp được bao nhiêu cái thuyền?” Giáo viên phải 14 Nhờ có những biện pháp hướng dẫn học sinh phân tích đề toán và nhận dạng bài toán tôi đã giúp các em khắc phục được những sai lầm khi tìm hướng giải cho từng bài toán cụ thể. - Lỗi sai khi viết câu lời giải, phép tính, ghi đơn vị: Trong quá trình thực hiện bài giải, các em cũng mắc không ít những lỗi sai. Lỗi sai mà các em thường hay mắc nhất là câu trả lời sai. Đối với các bài toán giải bằng một phép tính, các em dễ dàng tìm được câu trả lời nhờ vào câu hỏi của đề toán. Sang bài toán giải bằng hai phép tính, do có một bước tính trung gian nên các em khó trình bày thành một câu trả lời hoàn chỉnh cho phép tính đó. Việc khắc phục lỗi sai này phần lớn dựa vào việc hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải bài toán. Để hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải bài toán, tôi dùng hệ thống câu hỏi đi từ phân tích đến tổng hợp. Bao giờ câu hỏi đầu tiên của phần lập kế hoạch giải cũng phải xuất phát từ cái mà đề bài yêu cầu phải tìm. Để tìm được ẩn số đó, ta cần biết thêm cái gì? Điều quan trọng khi hướng dẫn học sinh lập kế hoạch giải là giáo viên cần hướng dẫn học sinh thiết lập được mối quan hệ giữa: + Cái cần tìm với cái đã cho biết và cái chưa cho biết. + Cái chưa cho biết với cái đã cho biết. Từ đó tìm ra “nút thắt” đầu tiên cần phải tháo gỡ. Sau đó, bằng hệ thống câu hỏi tổng hợp, giáo viên giúp học sinh thiết lập các bước giải bài toán: + Vậy bài toán có mấy phép tính? + Phép tính thứ nhất ta tìm cái gì? + Phép tính thứ hai ta tìm cái gì? Sau khi học sinh nắm được cái cần tìm ở từng phép tính, tôi thường nhấn mạnh để học sinh biết: ở mỗi phép tính, ta tìm cái gì thì trả lời về cái đó. Tính toán sai cũng là một lỗi mà một số ít học sinh gặp phải. Trường hợp này rơi vào một số em kỹ năng tính toán yếu do các em chưa thuộc kỹ các bảng cộng, trừ, nhân, chia hoặc chưa nắm vững kỹ thuật tính toán. Đối với các em 16
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_thuc_hie.docx